Xây dựng pháp luật

PHÂN TÍCH MỘT SỐ BẤT CẬP CỦA LUẬT CÔNG NGHỆ THÔNG TIN

20/12/2022 09:22 SA

 Sau 16 năm thi hành, quá trình thực thi Luật Công nghệ thông tin đã có một số vướng mắc, bất cập. Cụ thể như sau:

(1)Công tác quản lý và thúc đẩy hoạt động công nghiệp CNTT thời gian qua đã bộc lộ một số vướng mắc do việc thiếu đồng bộ trong khái niệm, phân loại các loại hình công nghiệp CNTT, đặc biệt là sự xuất hiện của công nghệ số chưa được định nghĩa trong hệ thống văn bản QPPL nên khó khăn trong việc áp dụng chế tài và cơ chế, chính sách thúc đẩy phát triển.
(2) Hành lang pháp luật về công nghiệp CNTT hiện tại đang thiếu các quy định pháp lý cho việc phát triển và quản lý các sản phẩm, dịch vụ công nghệ số mới. Các doanh nghiệp nghiên cứu, phát triển các sản phẩm, dịch vụ công nghệ số mới gặp nhiều khó khăn do chưa được đặt tên, phân loại, chưa có chế tài để áp dụng, chưa có chính sách để hỗ trợ. Doanh nghiệp không thể đưa ra thị trường các sản phẩm, dịch vụ công nghệ số mới nếu thiếu các quy định pháp lý. Ngay cả việc thử nghiệm các sản phẩm, dịch vụ công nghệ số mới cũng có thể gặp nhiều khó khăn.
(3) Luật CNTT đưa ra các biện pháp bảo đảm phát triển CNTT như chính sách về nghiên cứu phát triển, phát triển nguồn nhân lực, khu CNTT tập trung, đầu tư cho CNTT, phát triển thị trường... Qua thực tiễn triển khai, Bộ Thông tin và Truyền thông nhận thấy, các biện pháp trong Luật CNTT khá chung chung, chưa cụ thể, nhiều nội dung không còn phù hợp với thực tế phát triển như: Chính sách ưu đãi, đầu tư (tại Điều 48 của Luật CNTT) chưa cụ thể ở mức nào của chính sách đầu tư, chưa thể hiện định hướng trọng tâm ưu tiên phát triển; Chính sách phát triển nhân lực CNTT (từ Điều 42 đến Điều 46 Luật CNTT) khá chung chung, quy định về trách nhiệm giữa các bộ, ngành trong đào tạo và cấp chứng chỉ chưa rõ ràng gây khó khăn cho công tác quản lý, triển khai. Luật CNTT thiếu các chính sách để thu hút nhân lực chất lượng cao, chính sách gắn việc đào tạo lý thuyết với thực tiễn; Quy định về hỗ trợ phát triển thị trường chưa rõ ràng, chưa cụ thể: Luật CNTT (Khoản 2 Điều 49) quy định cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành quy định và tổ chức thực hiện các hoạt động xúc tiến thương mại, quảng bá, tiếp thị hình ảnh công nghiệp công nghệ thông tin… tuy nhiên không kèm theo các quy định về trách nhiệm, nguồn lực cụ thể để triển khai; Chủ trương thúc đẩy sáng tạo, thiết kế, sản xuất, tích hợp, thử nghiệm ứng dụng các sản phẩm, dịch vụ công nghệ số trong nước đã được Bộ Chính trị, Chính phủ quán triệt, chỉ đạo trong các Nghị quyết. Tuy nhiên chưa được cụ thể hóa trong các văn bản quy phạm pháp luật để thực thi một cách toàn diện, rộng khắp, hiệu quả;  Còn có sự bất bình đẳng trong quản lý các hoạt động công nghiệp công nghệ số giữa doanh nghiệp trong nước và các tổ chức, doanh nghiệp nước ngoài cung cấp sản phẩm, dịch vụ công nghệ số xuyên biên giới về điều kiện hoạt động và các trách nhiệm, nghĩa vụ phải tuân thủ theo pháp luật Việt Nam; Chưa có chính sách thu hút FDI công nghiệp công nghệ số có cam kết (tỷ lệ nội địa, %R&D,…) để vừa thu hút FDI, vừa phát triển được năng lực trong nước; Dữ liệu số là tư liệu sản xuất đầu vào của ngành công nghiệp công nghệ số, góp phần quan trọng trong việc hình thành và phát triển kinh tế số, xã hội số, chính phủ số... Tuy nhiên, còn khoảng trống các quy định pháp luật về Phát triển dữ liệu số, bao gồm: tiếp cận dữ liệu số; thu thập, sử dụng và kinh doanh dữ liệu số; chính sách ưu tiên phát triển dữ liệu số; sử dụng, khai thác dữ liệu số trong ngành công nghiệp công nghệ số; Thiếu quy định về khuyến khích đầu tư sản xuất các sản phẩm thân thiện môi trường và an toàn đối với sức khỏe con người; quy định về trách nhiệm xã hội của các nhà sản xuất sản phẩm phần cứng điện tử: thu hồi, xử lý các hàng hóa thải bỏ.
Trong xu thế phát triển mới, chính sách vĩ mô về phát triển các ngành công nghiệp cũng sẽ có những cách tiếp cận khác so với trước đây. Chính sách công nghiệp ngày nay phải phù hợp với hội nhập toàn cầu, tuân theo quy luật vận động của cơ chế thị trường; tạo động lực để doanh nghiệp đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số; tập trung phát triển kỹ năng về công nghệ số cho nguồn nhân lực; bảo đảm sự liên kết giữa cơ quan quản lý và doanh nghiệp; xây dựng thương hiệu ngành, thương hiệu quốc gia; tạo các liên kết, chuỗi, cụm công nghiệp… Các điểm mới này chưa được thể hiện trong pháp luật về công nghiệp CNTT, cần được bổ sung, làm rõ trong một Luật chuyên ngành về công nghiệp công nghệ số.
(4) Trong hệ thống pháp luật công nghiệp CNTT hiện nay, kết cấu hạ tầng công nghiệp CNTT cụ thể là Khu CNTT tập trung. Khu CNTT tập trung tại Việt Nam đã và đang khẳng định vai trò quan trọng, trở thành hạ tầng quan trọng cho phát triển công nghiệp CNTT. Luật CNTT đã quy định chung về khuyến khích đầu tư, xây dựng khu CNTT tập trung (Điều 54), tuy nhiên, thực tiễn phát triển thời gian qua cho thấy việc thiếu những quy định liên quan đến mô hình phát triển mới của khu CNTT tập trung như mô hình chuỗi công viên phần mềm hay mô hình liên kết, hợp tác trên môi trường số, không cùng một ranh giới địa lý; thiếu quy trình thực hiện dự án đầu tư khu CNTT tập trung; chính sách về giao đất, thuê đất; tiền sử dụng đất, tiền thuê đất chưa rõ ràng... trong Luật CNTT và văn bản dưới Luật đang làm hạn chế sự phát triển của các khu.
Luật Công nghệ thông tin quy định khá chung chung về tài nguyên thông tin, cơ sở dữ liệu quốc gia (Khoản 4 Điều 6), chính sách phát triển cơ sở hạ tầng (Điều 54 đến 59 Luật CNTT). Có thể thấy, trong hệ thống pháp luật về công nghiệp CNTT, chưa có đầy đủ các kết cấu hạ tầng để phát triển ngành công nghiệp công nghệ số như trung tâm tính toán hiệu năng cao. Theo kinh nghiệm nhiều quốc gia, khu vực trên thế giới như EU, Trung Quốc, Hoa Kỳ, để phát triển các ngành công nghệ cao như CNTT, công nghệ số, các quốc gia đều đầu tư xây dựng và vận hành các siêu máy tính để giải quyết những bài toán lớn của quốc gia, của khu vực, góp phần tăng năng lực công nghệ của đất nước. Trong khi đó, Việt Nam hoàn toàn chưa có những quy định, chính sách để phát triển loại hạ tầng kỹ thuật quan trọng này.
(5) Thực tiễn về ứng dụng CNTT, giao dịch điện tử giữa các cơ quan nhà nước với nhau, giữa các cơ quan nhà nước với tổ chức, doanh nghiệp, người dân: Người dân, doanh nghiệp vẫn phải cung cấp lặp lại thông tin cho cơ quan nhà nước khi thực hiện thủ tục hành chính; cơ quan nhà nước vẫn yêu cầu người dân cung cấp những giấy tờ do chính cơ quan nhà nước đã cấp; Việc kết nối, chia sẻ, mở dữ liệu của các cơ quan nhà nước còn rất hạn chế; sự tương tác với người dân, doanh nghiệp qua môi trường mạng còn mang tính hình thức; các dịch vụ công trực tuyến do cơ quan nhà nước cung cấp là chủ yếu, doanh nghiệp chỉ mới tham gia một phần trong quy trình cung cấp (tiêu biểu như nhận hồ sơ, trả kết quả, dịch vụ thanh toán).
(6)Mô hình triển khai ứng dụng CNTT trong các cơ quan nhà nước chưa được quy định thống nhất, đồng bộ từ Trung ương đến địa phương (nơi nào nên theo mô hình tập trung, nơi nào nên theo mô hình phân tán). Điều này gây khó khăn trong kết nối, chia sẻ, sử dụng chung tài nguyên CNTT; Các quy định về xây dựng, ban hành hệ thống, các chiến lược, kế hoạch về ứng dụng CNTT, chuyển đổi số của quốc gia và cơ quan nhà nước các cấp còn chưa thống nhất, rõ ràng và còn nhiều chồng chéo, bất cập, gây khó khăn quá trình xây dựng, triển khai, thậm trí trùng lặp, lãng phí nguồn lực.
(7) Nhiều hoạt động của cơ quan nhà nước vẫn chưa được đưa lên môi trường số; Các cơ quan chuyên trách CNTT chưa phát huy hết vai trò tổ chức, triển khai ứng dụng CNTT, đặc biệt là chuyển đổi số tại các ngành, lĩnh vực, địa phương. Cán bộ, công chức, viên chức trong các cơ quan nhà nước vẫn thiếu năng lực, kỹ năng số để nhanh chóng triển khai ứng dụng CNTT, công nghệ số trong giai đoạn chuyển đổi số. Tại địa phương có nhiều sở, ban, ngành không có cán bộ chuyên trách CNTT, chủ yếu là kiêm nhiệm; nhân lực ứng dụng CNTT giữa các địa phương trên cả nước còn có sự chênh lệch lớn; Ứng dụng CNTT chưa thực sự gắn kết chặt chẽ với cải cách hành chính. Các thủ tục hành chính vẫn thiếu chuẩn hoá, thiếu liên thông, chưa tối ưu theo công nghệ số. Việc triển khai công nghệ chưa theo kịp nhu cầu thay đổi quy trình nghiệp vụ của cơ quan nhà nước.
Trên đây là một số những vấn đề đang còn bất cập, khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực thi Luật Công nghệ thông tin năm 2006 đã được Bộ Thông tin và Truyền thông đánh giá, báo cáo Chính phủ, chuyên mục Chính sách pháp luật được giới thiệu với bạn đọc và rất mong nhận tiếp tục nhận được ý kiến của quý vị. Trân trọng cảm ơn./.

Phan Thanh Huyền - Vụ Pháp chế