Xuất phát từ nhu cầu cần thiết về một hành lang pháp lý nhằm định hướng thúc đẩy sự phát triển của ngành công nghiệp công nghệ số (CN CNS) và tăng cường năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp công nghệ số Việt Nam; Thúc đẩy đổi mới sáng tạo, hỗ trợ và khuyến khích các doanh nghiệp công nghệ số, đặc biệt là các doanh nghiệp khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo nhằm thúc đẩy mạnh mẽ quá trình chuyển đổi số của Việt Nam.
Vừa qua, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm đã nhấn mạnh “Chuyển đổi số - Động lực quan trọng phát triển lực lượng sản xuất, hoàn thiện quan hệ sản xuất đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới”, "Chuyển đổi số không đơn thuần là việc ứng dụng công nghệ số vào các hoạt động kinh tế - xã hội, mà còn là quá trình xác lập một phương thức sản xuất mới tiên tiến, hiện đại”- “phương thức sản xuất số”.
Trên tinh thần đó, nhằm thúc đẩy quá trình Chuyển đổi số, nhanh chóng góp phần xác lập phương thức sản xuất số, việc xây dựng Luật Công nghiệp công nghệ số là cấp thiết nhằm:
(i) Thể chế hóa quan điểm, chủ trương của Đảng và Nhà nước
[1] về “Ưu tiên xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật chuyên ngành về phát triển công nghiệp quốc gia và các lĩnh vực công nghiệp đặc thù như
công nghiệp công nghệ số” ;
(ii) Thu hút, đón đầu làn sóng chuyển dịch đầu tư của các tập đoàn công nghệ lớn toàn cầu vào Việt Nam: các doanh nghiệp công nghệ số lớn, hàng đầu thế giới khi tham gia vào thị trường Việt Nam đều mong muốn một hành lang pháp lý rõ ràng, minh bạch, các chính sách hỗ trợ phát triển, ưu đãi cụ thể, nhất là trong bối cảnh hiện nay đang có sự dịch chuyển trên phạm vi toàn cầu của các DN CNS lớn (diễn ra trong thời gian rất ngắn). Do đó, nếu không kịp thời ban hành ngay các chính sách trong lĩnh vực CN CNS, Việt Nam sẽ đánh mất các cơ hội này;
(iii) Xây dựng chính sách đột phá nhằm thúc đẩy CN CNS trở thành công nghiệp mũi nhọn, kịp thời nắm bắt xu thế phát triển công nghệ cốt lõi, có tính cách mạng, mang tính đột phá (như AI, vi mạch bán dẫn, IoT,…). Nếu không kịp thời ban hành Luật Công nghiệp công nghệ số với các chính sách quản lý, thúc đẩy phù hợp các công nghệ quan trọng này có thể làm chậm, lỡ cơ hội phát triển của ngành CN CNS Việt Nam nói riêng và ngành công nghiệp cũng như nền kinh tế của Việt Nam nói chung.
Mục đích ban hành văn bản
- Phát triển công nghiệp công nghệ số trở thành ngành kinh tế đóng góp lớn vào kinh tế đất nước; tạo môi trường thuận lợi nhất để nuôi dưỡng và phát triển doanh nghiệp công nghệ số.
- Phát triển ngành công nghiệp công nghệ số với trọng tâm là các doanh nghiệp công nghệ số Việt Nam, từng bước chuyển dịch từ lắp ráp, gia công sang sáng tạo, thiết kế, tích hợp, sản xuất, làm chủ công nghệ lõi tại Việt Nam; góp phần xây dựng Chính phủ số, động lực phát triển kinh tế số, xã hội số.
- Khẳng định giá trị pháp lý của công nghiệp công nghệ số; hình thành các quy định, chính sách để thúc đẩy phát triển công nghiệp công nghệ số. Luật Công nghiệp công nghệ số thay thế các nội dung về công nghiệp CNTT và dịch vụ CNTT trong Luật Công nghệ thông tin và bổ sung các quy định mới phù hợp với thực tiễn phát triển.
Quan điểm xây dựng Luật
Một là, thể chế hóa các chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách của Nhà nước về phát triển ngành công nghiệp công nghệ số, đặc biệt là Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 17/11/2022 Hội nghị lần thứ sáu Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp, hiện đại hóa đất nước đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045; Nghị quyết số 52-NQ/TW ngày 27/9/2019 của Bộ Chính trị về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, …
Hai là, khắc phục các hạn chế, bất cập hiện nay trên cơ sở phân tích, đánh giá hiện trạng thực thi các quy định pháp luật về công nghiệp CNTT và dịch vụ CNTT theo pháp luật hiện hành. Đồng thời, đề xuất chính sách khả thi nhằm quy định cụ thể, tạo hành lang pháp lý rõ ràng, đặc biệt cho các sản phẩm, dịch vụ công nghệ số để thúc đẩy phát triển ngành công nghiệp công nghệ số; tạo cơ chế ưu đãi cho công nghiệp công nghệ số, trong đó có một số đặc biệt ưu đãi đầu tư; và ưu đãi, hỗ trợ đầu tư đặc biệt.
Ba là, Luật Công nghiệp công nghệ số được xây dựng trên cơ sở kế thừa có chọn lọc các quy định còn phù hợp của Luật Công nghệ thông tin và các văn bản hướng dẫn thi hành về công nghiệp CNTT; thống nhất với hệ thống pháp luật hiện hành về đầu tư, tài chính, khoa học công nghệ …, đồng bộ với các dự thảo luật có liên quan đang trong quá trình soạn thảo (Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp, Luật Khoa học và Công nghệ, Luật Dữ liệu, …), sửa đổi bổ sung một số nội dung trong các Luật (Luật Đầu tư, Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp, Luật Thuế xuất khẩu, nhập khẩu, …)
[2] để bảo đảm sự thống nhất, đồng bộ trong hệ thống pháp luật, tạo thuận lợi cho thực thi, áp dụng.
Bốn là, tham khảo có chọn lọc pháp luật và kinh nghiệm quốc tế để vận dụng phù hợp với thực tiễn của Việt Nam nhằm đáp ứng các yêu cầu phát triển của công nghiệp 4.0 và kinh tế số nói riêng, đặc biệt là tham khảo, học tập quy định quản lý những công nghệ mới tại các đạo luật của Châu Á, Châu Âu, Hoa Kỳ
[3], …
Năm là, xây dựng Luật với các cơ chế, chính sách ưu đãi, quy trình, thủ tục thuận lợi nhất cho ngành công nghiệp công nghệ số, hỗ trợ doanh nghiệp công nghệ số khởi nghiệp đổi mới sáng tạo số, thúc đẩy Make in Viet Nam, tuy nhiên, vẫn bảo đảm không làm thay đổi trách nhiệm, không chồng lấn chức năng quản lý nhà nước của các bộ, ngành theo lĩnh vực được phân công.
Phạm vi điều chỉnh
Luật này quy định về công nghiệp công nghệ số, bao gồm: hoạt động công nghiệp công nghệ số; phát triển công nghiệp công nghệ số; quyền và trách nhiệm của tổ chức, cá nhân tham gia hoặc có liên quan đến công nghiệp công nghệ số.
Phạm vi điều chỉnh không quy định về hoạt động sản xuất, cung cấp sản phẩm, dịch vụ công nghệ số phục vụ cho quốc phòng, an ninh, hoạt động cơ yếu để bảo vệ thông tin bí mật nhà nước. Việc loại trừ này xuất phát từ việc rà soát các luật có liên quan trong đó có Luật Công nghiệp quốc phòng, an ninh và động viên công nghiệp, Luật Cơ yếu. Các luật này đã điều chỉnh về hoạt động sản xuất, dịch vụ công nghiệp phục vụ quốc phòng, an ninh, hoạt động cơ yếu. Theo đó các hoạt động sản xuất sản phẩm, dịch vụ CNS phục vụ quốc phòng, an ninh, cơ yếu sẽ được điều chỉnh theo pháp luật về công nghiệp quốc phòng, an ninh và động viên công nghiệp, cơ yếu, để bảo đảm việc tránh chồng chéo trong hệ thống pháp luật đồng thời không tạo ra khoảng trống pháp luật.
Kỳ vọng sau khi Luật Công nghiệp công nghệ số được ban hành sẽ: (1) Thúc đẩy phát triển CN CNS thành một ngành kinh tế có đóng góp lớn cho kinh tế đất nước đồng thời hạn chế những rủi ro nếu có trong các hoạt động CN CNS; (2) Từng bước chuyển dịch các doanh nghiệp công nghệ số Việt Nam chủ yếu từ lắp ráp, gia công sang sáng tạo, thiết kế, tích hợp, sản xuất và làm chủ công nghệ lõi, hình thành một hệ sinh thái cho CN CNS của Việt Nam; (3) Tạo thị trường trong và ngoài nước cho CN CNS Việt Nam và thúc đẩy phát triển sản phẩm công nghệ số thiết kế và sản xuất trong nước.
[1] Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 17 tháng 11 năm 2022 của Hội nghị lần thứ sáu Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, Nghị quyết số 52-NQ/TW ngày 27 tháng 9 năm 2019 của Bộ Chính trị về một số chủ trương chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư; Kết luận số 13-KL/TW của Bộ Chính trị thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/TW
[2] dự kiến sửa 9 Luật: Luật Công nghệ thông tin, Luật Đầu tư, Luật Đầu tư công, Luật Đất đai, Luật Xây dựng, Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp, Luật Công nghệ cao, Luật Thuế xuất khẩu, nhập khẩu, Luật Quy hoạch.
[3] Đạo Luật về Thúc đẩy công nghiệp ICT của Hàn Quốc, Luật Thúc đẩy hội tụ ICT của Hàn Quốc, Luật Thúc đẩy công nghiệp phần mềm của Hàn Quốc; Luật về Trí tuệ nhân tạo của Liên minh Châu Âu; Luật Chip của Hoa Kỳ.