Chính sách cung cấp dịch vụ viễn thông công ích đã được quy định tại Luật Viễn thông ngày 23 tháng 11 năm 2009 và Nghị định số 25/2011/NĐ-CP ngày 06 tháng 4 năm 2011 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Viễn thông. Việc cung cấp dịch vụ viễn thông công ích của nhà nước có ý nghĩa quan trọng đối với vùng có điều kiện kinh doanh dịch vụ viễn thông khó khăn, theo cơ chế thị trường doanh thu của doanh nghiệp viễn thông không bù đắp được chi phí; đồng thời, chính sách này tạo điều kiện cho nhân dân ở vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo; hộ nghèo, hộ cận nghèo có điều kiện tiếp cận và sử dụng các dịch vụ viễn thông phổ cập.
Về vấn đề Quỹ Dịch vụ viễn thông công ích Việt Nam (sau đây gọi tắt là Quỹ) tại dự thảo Luật Viễn thông (sửa đổi), có 02 loại ý kiến khác nhau:
- Loại ý kiến thứ nhất đề nghị không quy định Quỹ trong Luật vì hiện nay đã phủ sóng tất cả vùng sâu, vùng xa; đây là quỹ tài chính nhà nước ngoài ngân sách và hoạt động chưa phù hợp với Luật Ngân sách nhà nước, nhiệm vụ chi trùng với nhiệm vụ của ngân sách nhà nước; hoạt động của Quỹ trong thời gian qua chưa hiệu quả, nhiều vướng mắc, bất cập.
- Loại ý kiến thứ hai đề nghị tiếp tục duy trì Quỹ nhưng cần hoàn thiện quy định về Quỹ, luật hóa các nội dung được quy định tại các văn bản dưới luật liên quan đến các nguyên tắc hoạt động, nhiệm vụ, quyền hạn của Quỹ, đảm bảo đồng bộ với Luật Ngân sách nhà nước, Luật Phí và lệ phí, đánh giá kỹ hiệu quả hoạt động của Quỹ trong thời gian vừa qua, nghiên cứu, tham khảo kinh nghiệm của các nước về hoạt động của Quỹ; có chính sách hợp lý đối với các doanh nghiệp nhỏ, doanh nghiệp mới tham gia thị trường, chưa có lợi nhuận trong thực hiện nghĩa vụ đóng góp vào Quỹ; bổ sung quyền và trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà nước chuyên ngành tại địa phương.
Về vấn đề này, cơ quan chủ trì soạn thảo cho rằng:
- Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã xác định “Chú trọng phát triển hạ tầng thông tin, viễn thông, tạo nền tảng chuyển đổi số quốc gia, từng bước phát triển kinh tế số, xã hội số”. Thực hiện Nghị quyết, thời gian qua hạ tầng viễn thông băng rộng đã được triển khai đến cấp xã trên phạm vi toàn quốc, cơ bản đã hoàn thành phủ sóng 2G, 3G. Mặc dù vậy tại các vùng sâu, vùng xa, vùng có điều kiện kinh tế đặc biệt khó khăn vẫn cần tiếp tục triển khai hạ tầng cáp quang, phủ sóng 4G, 5G đến địa bàn cấp thôn để hoàn thành mục tiêu phát triển hạ tầng viễn thông băng rộng trở thành hạ tầng của nền kinh tế - xã hội phục vụ chuyển đổi số, thúc đẩy phát triển kinh tế số, xã hội số, nhất là ở khu vực miền núi, biên giới, hải đảo và vùng có điều kiện kinh tế đặc biệt khó khăn; đồng thời, cần tiếp tục hỗ trợ các đối tượng như hộ nghèo, hộ cận nghèo, các đối tượng chính sách đặc biệt khác trên phạm vi toàn quốc được sử dụng dịch vụ viễn thông công ích và thiết bị đầu cuối.
- Lĩnh vực viễn thông có tính đặc thù, số lượng các doanh nghiệp tham gia kinh doanh không nhiều do hạn chế về tài nguyên viễn thông. Trên thực tế, khi tham gia thị trường, doanh nghiệp viễn thông thường chọn các địa bàn kinh doanh có lợi nhuận, mà không triển khai tại các vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo vì chi phí đầu tư lớn trong khi doanh thu không đủ bù đắp chi phí.
- Theo công bố của Liên minh Viễn thông quốc tế (ITU), có 91 nước trên thế giới duy trì Quỹ với tên gọi là Quỹ Dịch vụ phổ cập (Universal Service Fund) để thực hiện phổ cập dịch vụ viễn thông. Tuỳ thuộc vào chính sách phát triển mỗi nước, Quỹ được sử dụng để hỗ trợ phát triển hạ tầng viễn thông băng rộng ở vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn nơi mà chi phí đầu tư cao, không đem lại lợi nhuận; hỗ trợ chi phí sử dụng dịch vụ truy nhập Internet, dịch vụ điện thoại cố định, dịch vụ điện thoại di động cho những đối tượng như trường học, bệnh viện, người có thu nhập thấp...
Theo đánh giá tổng kết về Quỹ Dịch vụ viễn thông công ích (gửi kèm theo công văn số 3315/BTTTT-CVT ngày 14/8/2023 của Bộ Thông tin và Truyền thông), hoạt động của Quỹ trong thời gian qua (từ năm 2006 đến năm 2022) đã đạt được một số kết quả tích cực, đảm bảo người dân ở mọi vùng miền được sử dụng dịch vụ viễn thông để tiếp cận thông tin, nâng cao dân trí, đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội, rút ngắn khoảng cách số giữa các vùng miền và giữa các đối tượng trên khắp cả nước, góp phần đảm bảo an toàn, an ninh quốc gia. Quỹ đã hỗ trợ doanh nghiệp cung cấp dịch vụ viễn thông công ích ở địa bàn vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn; hỗ trợ đối tượng công ích trên toàn quốc chi phí sử dụng dịch vụ viễn thông công ích và thiết bị đầu cuối. Tổng kinh phí để thực hiện các nhiệm vụ hỗ trợ nêu trên khoảng gần 8 ngàn tỷ đồng. Theo kết quả kiểm toán của Kiểm toán Nhà nước năm 2020 và năm 2023 đối với Quỹ Dịch vụ viễn thông công ích, các thông báo Kết luận kiểm toán năm 2020 và năm 2023 của Kiểm toán Nhà nước đối với Quỹ Dịch vụ viễn thông công ích đã nhận định các nhiệm vụ chi của Quỹ đúng đối tượng thụ hưởng theo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ thuộc Chương trình cung cấp dịch vụ viễn thông công ích.
Tuy vậy, hoạt động viễn thông công ích trong thời gian qua còn bộc lộ một số tồn tại như: chưa đảm bảo tính liên tục trong hỗ trợ cung cấp dịch vụ viễn thông công ích; chưa đảm bảo cân đối thu, chi trong quản lý, sử dụng nguồn tài chính Quỹ gây tồn dư Quỹ lớn; một số nhiệm vụ cung cấp dịch vụ viễn thông công ích không thực hiện được; công tác quản lý, điều hành việc cung cấp dịch vụ viễn thông công ích còn bất cập. Nguyên nhân cơ bản của các tồn tại, hạn chế nêu trên là do hệ thống văn bản pháp luật có liên quan về Quỹ chưa hoàn thiện (chưa có cơ chế quản lý, sử dụng Quỹ để hỗ trợ doanh nghiệp và đối tượng sử dụng dịch vụ viễn thông công ích; chưa có quy định về trách nhiệm của địa phương tham gia vào hoạt động viễn thông công ích, phương thức hỗ trợ trong một số trường hợp đặc thù); công tác dự báo chưa theo kịp sự phát triển của thị trường, công nghệ viễn thông.
Để khắc phục những khó khăn, vướng mắc trong hoạt động viễn thông công ích thời gian qua, dự thảo Luật đã được chỉnh lý tại Chương III về hoạt động viễn thông công ích theo hướng:
- Luật hóa một số quy định tại Nghị định của Chính phủ, quyết định của Thủ tướng Chính phủ mà đã được thực hiện ổn định trong thời gian qua, bao gồm: quy định về chức năng, nguyên tắc hoạt động, các nguồn hình thành Quỹ, sử dụng Quỹ đảm bảo không trùng lặp với nguồn thu, nhiệm vụ chi của ngân sách nhà nước. Đồng thời, quy định rõ mục đích sử dụng Quỹ là tập trung vào việc hỗ trợ cung cấp dịch vụ viễn thông công ích (hỗ trợ phát triển, nâng cấp, duy trì cơ sở hạ tầng viễn thông) tại các khu vực miền núi, biên giới, hải đảo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn bên cạnh việc hỗ trợ sử dụng dịch vụ viễn thông công ích và thiết bị đầu cuối.
- Bổ sung nội dung quy định về hình thức hỗ trợ; phương thức hỗ trợ cung cấp, sử dụng dịch vụ viễn thông công ích, thiết bị đầu cuối bao gồm đấu thầu, đặt hàng, giao nhiệm vụ (khoản 4 Điều 30).
- Bổ sung nội dung giao Chính phủ quy định danh mục dịch vụ viễn thông công ích, địa bàn và đối tượng được hỗ trợ; điều kiện, thẩm quyền quyết định phương thức hỗ trợ doanh nghiệp và hỗ trợ đối tượng sử dụng trong đó quy định một số trường hợp đặc thù thực hiện giao nhiệm vụ, đặt hàng cung cấp dịch vụ viễn thông công ích và hỗ trợ trực tiếp cho đối tượng sử dụng dịch vụ viễn thông công ích, hỗ trợ thiết bị đầu cuối; mức đóng góp tối đa của các doanh nghiệp viễn thông, các đối tượng được miễn, giảm đóng góp vào Quỹ; cơ chế quản lý, sử dụng Quỹ trong đó bao gồm cơ chế hỗ trợ tài chính cho doanh nghiệp đảm bảo tính liên tục và cơ chế hỗ trợ đối tượng sử dụng dịch vụ viễn thông công ích và thiết bị đầu cuối (khoản 1 Điều 31). Bổ sung trách nhiệm của Chính phủ trong việc báo cáo Quốc hội về kết quả hoạt động của Quỹ (khoản 2 Điều 31).
- Rà soát, chỉnh lý các quy định về trách nhiệm của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Thông tin và Truyền thông trong quản lý hoạt động viễn thông công ích (khoản 3 và khoản 4 Điều 31).
- Bổ sungquy định về trách nhiệm của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trong việc phối hợp đề xuất xây dựng và tổ chức thực hiện chương trình cung cấp dịch vụ viễn thông công ích tại địa phương (khoản 5 Điều 31).
Ngoài ra, có ý kiến đề nghị giao Quỹ cho Bộ Tài chính quản lý hoặc giao cho địa phương tổ chức thực hiện hoặc cân nhắc đổi tên của Quỹ cho phù hợp hơn với mục tiêu, tính chất hoạt động của Quỹ.
Cơ quan chủ trì soạn thảo sẽ nghiên cứu, cân nhắc tiếp thu các ý kiến nêu trên để hoàn thiện nội dung dự thảo Luật, đảm bảo hoạt động của Quỹ đạt hiệu quả cao, thiết thực, mang lại lợi ích cho người dân./.