Hiện nay, Bộ Tư pháp đang dự thảo Nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 55/2011/NĐ-CP ngày 04/7/2011 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của tổ chức pháp chế.
Sau hơn 10 năm thực hiện, công tác pháp chế đạt được nhiều kết quả quan trọng, góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị, phát triển kinh tế - xã hội; giữ vững an ninh, quốc phòng; nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế: Chất lượng công tác xây dựng và thi hành pháp luật được nâng cao; tổ chức pháp chế được thành lập, củng cố và kiện toàn; nguồn nhân lực làm công tác pháp chế từng bước được phát triển với chất lượng ngày càng cao; cơ chế phối hợp trong lãnh đạo và triển khai công tác pháp chế từng bước được xác lập, hiệu quả hơn…
Thực tiễn cho thấy, để thực hiện nhiệm vụ được giao, một số cơ sở giáo dục đại học, cơ sở đào tạo nghề đã thành lập tổ chức pháp chế hoặc bố trí người làm công tác pháp chế chuyên trách hoặc kiêm nhiệm.
Tuy nhiên, cơ cấu tổ chức của tổ chức pháp chế tại các đơn vị sự nghiệp công lập chưa được quy định cụ thể trong
Nghị định số 55/2011/NĐ-CP. Điều này dẫn đến khó khăn trong việc kiện toàn về bộ máy cũng như triển khai thực hiện nhiệm vụ của tổ chức pháp chế tại các đơn vị này.
Sau khi
Nghị định số 55/2011/NĐ-CP được ban hành, nhiều văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL) đã được sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới có điều chỉnh nhiệm vụ, quyền hạn của các tổ chức pháp chế về xây dựng pháp luật, phổ biến, giáo dục pháp luật, kiểm tra, rà soát hệ thống hóa VBQPPL, bồi thường nhà nước, hợp nhất VBQPPL, theo dõi thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính, ký kết và thực hiện thỏa thuận quốc tế…Do đó, một số quy định của
Nghị định số 55/2011/NĐ-CP không còn bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất của hệ thống pháp luật; còn thiếu quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của tổ chức pháp chế tại đơn vị sự nghiệp công lập.
Nghị định số 55/2011/NĐ-CP chưa quy định về tổ chức pháp chế ở các Tổng cục và tương đương có mô hình tổ chức ngành dọc, do đó, các Tổng cục và tương đương chưa có đầu mối để triển khai công tác pháp chế ở địa phương, gây khó khăn trong việc triển khai nhiệm vụ được giao ở cơ sở, chưa đảm bảo mô hình pháp chế từ trung ương đến địa phương.
Một số điểm mới tại dự thảo Nghị định sửa đổi, bổ sung Nghị định 55/2011/NĐ-CP của Chính phủ gồm:
Một là, bổ sung tổ chức pháp chế tại các đơn vị sự nghiệp công lập vào đối tượng áp dụng của Nghị định.
Hai là, tiếp tục hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các tổ chức pháp chế theo hướng quy định các nhiệm vụ, quyền hạn các tổ chức pháp chế trên cơ sở sửa đổi, bổ sung cho phù hợp, thống nhất và đồng bộ với các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành có liên quan như: Luật ban hành văn bản QPPL năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2020), Luật Trách nhiệm Bồi thường của Nhà nước, Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật, Luật Xử lý vi phạm hành chính... Đồng thời, bổ sung nhiệm vụ, quyền hạn của tổ chức pháp chế tại các đơn vị sự nghiệp công lập.
Ba là, quy định các bộ, cơ quan ngang bộ có Vụ hoặc Cục thực hiện chức năng tham mưu, giúp Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ trong việc thực hiện công tác pháp chế.
Bốn là, quy định các cơ quan thuộc Chính phủ có tổ chức pháp chế độc lập hoặc ghép với bộ phận Văn phòng thành Văn phòng - Pháp chế để đáp ứng yêu cầu của thực tiễn và bảo đảm tính linh hoạt trong việc chọn mô hình tổ chức pháp chế trong điều kiện các cơ quan thuộc Chính phủ có tổ chức và hoạt động khác nhau.
Năm là, sửa đổi, bổ sung quy định thành lập Phòng Pháp chế ở một số Sở, ngành theo hướng bảo đảm tính linh hoạt, phù hợp với thực tiễn, không làm tăng biên chế trong bối cảnh thực hiện chủ trương tinh gọn bộ máy, cơ cấu lại đội ngũ cán bộ công chức. Theo đó: (i) Giao Ủy ban nhân dân cấp tỉnh căn cứ vào yêu cầu quản lý nhà nước về ngành, lĩnh vực ở địa phương, quyết định thành lập Phòng Pháp chế hoặc ghép tổ chức pháp chế vào Thanh tra để thành lập tổ chức Thanh tra - Pháp chế (trên cơ sở những điểm tương đồng trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ thanh tra và chức năng, nhiệm vụ pháp chế) hoặc Văn phòng - Pháp chế/Tổ chức – Pháp chế (ở các Sở, ngành không thành lập tổ chức Thanh tra).
Sáu là, đối với tổ chức pháp chế doanh nghiệp nhà nước, để đáp ứng yêu cầu của thực tiễn, bảo đảm tính linh hoạt, phù hợp với quy mô của từng loại hình doanh nghiệp nhà nước, sửa đổi, bổ sung theo hướng quy định: (i) Các doanh nghiệp nhà nước là Tập đoàn, Tổng Công ty lớn thành lập tổ chức pháp chế; (ii) Các doanh nghiệp nhà nước còn lại, căn cứ nhu cầu công tác pháp chế, người quản lý doanh nghiệp quyết định việc thành lập tổ chức pháp chế hoặc bố trí nhân viên pháp chế chuyên trách.
Bảy là, về tổ chức pháp chế tại các đơn vị sự nghiệp công lập thuộc bộ, cơ quan ngang bộ (bệnh viện, trường học…): bổ sung quy định theo hướng mở là căn cứ nhu cầu công tác pháp chế, thủ trưởng đơn vị quyết định việc thành lập tổ chức pháp chế hoặc bố trí nhân viên pháp chế chuyên trách.
Tám là, về tiêu chuẩn người làm công tác pháp chế và chế độ phụ cấp ưu đãi nghề dành cho người làm công tác pháp chế: (i) Quy định chức danh, tiêu chuẩn chung và các ngạch Pháp chế viên (Pháp chế viên là công chức, viên chức được bổ nhiệm vào ngạch pháp chế để thực hiện nhiệm vụ pháp chế
; Tiêu chuẩn chung của Pháp chế viên, gồm tiêu chuẩn về phẩm chất đạo đức và tiêu chuẩn năng lực, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ (phải có bằng cử nhân luật); Pháp chế viên có các ngạch: Pháp chế viên, Pháp chế viên chính, Pháp chế viên cao cấp). Đồng thời, quy định chuyển tiếp đối với tiêu chuẩn, chức danh của người làm công tác pháp chế; (ii) Tương ứng với việc quy định ngạch pháp chế viên, giữ nguyên quy định của Nghị định số 55/2011/NĐ-CP về chế độ phụ cấp ưu đãi theo nghề và giao Thủ tướng Chính phủ quy định cụ thể.
Chín là, đối với người đứng đầu tổ chức pháp chế,quy định cụ thể về trực tiếp làm công tác pháp luật; tính cộng dồn tổng thời gian trực tiếp 5 năm làm công tác pháp luật.
Việc sửa đổi, bổ sung
Nghị định số 55/2011/NĐ-CP là cần thiết nhằm kịp thời tháo gỡ một số vướng mắc trong thực tiễn, tiếp tục hoàn thiện khuôn khổ pháp lý về vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức bộ máy của tổ chức pháp chế, tiêu chuẩn, chế độ ưu đãi cho người làm công tác pháp chế đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của công tác pháp chế, yêu cầu thực tiễn công tác xây dựng, hoàn thiện thể chế, pháp luật gắn với tổ chức thi hành pháp luật trong tình hình mới, từ đó góp phần nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả công tác pháp chế.