Chính sách, pháp luật

XÂY DỰNG LUẬT CÔNG NGHIỆP CÔNG NGHỆ SỐ ĐÁP ỨNG CÁC YÊU CẦU TỪ THỰC TIỄN PHÁT TRIỂN CỦA NGÀNH CN CNS VIỆT NAM

07/11/2023 11:35 SA

 Bộ Thông tin và Truyền thông trình Chính phủ đề nghị xây dựng Luật Công nghiệp công nghệ số nhằm thể chế hóa chủ trương, đường lỗi của Đảng và Nhà nước và đáp ứng các yêu cầu từ thực tiễn, đáp ứng các yêu cầu phát triển mới của ngành công nghiệp công nghệ số Việt Nam, cụ thể như sau:

1. Giải quyết tồn tại, bất cập trong thi hành quy định về công nghiệp công nghệ thông tin trong Luật Công nghệ thông tin; đề xuất chính sách đột phá nhằm thúc đẩy phát triển đồng thời hạn chế những rủi ro nếu có trong các hoạt động công nghiệp công nghệ số
Quy định pháp luật về công nghiệp CNTT được ban hành hơn 17 năm qua, tại thời điểm ngành CNTT mới bắt đầu phát triển tại Việt Nam. Những quy định này chưa điều chỉnh được những vấn đề phát sinh trong thực tiễn phát triển ngành công nghiệp CNTT, cụ thể:
- Xuất hiện những công nghệ mới của Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư tích hợp vào các sản phẩm, dịch vụ CNTT. Do đó, cần định nghĩa rõ nội hàm công nghệ số, công nghiệp công nghệ số trên cơ sở mở rộng nội hàm CNTT, công nghiệp CNTT. Ngoài ra, còn có xu thế hội tụ công nghệ số vào sản phẩm, dịch vụ của các ngành, lĩnh vực khác nên cần nghiên cứu quy định pháp lý để thúc đẩy, quản lý đối với sản phẩm, dịch vụ hội tụ công nghệ số.
- Dân số Việt Nam gần 100 triệu người, đứng thứ 15 thế giới, là thị trường lớn để nuôi dưỡng và phát triển doanh nghiệp công nghệ số Việt Nam. Tuy nhiên, pháp luật hiện hành chưa quy định biện pháp đột phá để phát triển thị trường trong nước cho doanh nghiệp công nghệ số, đặc biệt là các doanh nghiệp công nghệ số vừa và nhỏ.
- Dữ liệu số là tư liệu sản xuất đầu vào của ngành công nghiệp công nghệ số, góp phần quan trọng trong việc hình thành và phát triển kinh tế số, xã hội số, chính phủ số... Tuy nhiên, còn khoảng trống các quy định pháp luật về phát triển dữ liệu số phục vụ hoạt động công nghiệp công nghệ số.
- Vi mạch bán dẫn là một phần không thể thiếu của ngành công nghiệp công nghệ số, là chìa khóa cho các công nghệ số của tương lai như AI, 5G/6G, ứng dụng trong nhiều sản phẩm kỹ thuật số như điện thoại thông minh, ô tô. Ngày càng có nhiều vi mạch bán dẫn được nhúng trong robot và máy móc sản xuất, trong công nghiệp và nông nghiệp, cũng như trong các phương tiện vận tải và các thiết bị khác. Nhu cầu về vi mạch bán dẫn dự kiến sẽ tăng gấp đôi trong một thập kỷ tới[1]. Các quốc gia lớn trên thế giới và khu vực đều có chính sách riêng cho ngành công nghiệp vi mạch bán dẫn, phù hợp với đặc thù và vị trí quốc gia đó trong chuỗi giá trị vi mạch toàn cầu. Do đó, Việt Nam cũng cần có quy định riêng để thúc đầy lĩnh vực quan trọng này.
2. Tạo hành lang pháp lý thúc đẩy phát triển công nghiệp công nghệ số thành một ngành kinh tế có đóng góp lớn cho kinh tế đất nước
Ngành công nghiệp công nghệ số nước ta là một trong những ngành có tốc độ tăng trưởng nhanh trong nền kinh tế, với tốc độ tăng trưởng doanh thu hàng năm gấp 2 lần tốc độ tăng trưởng GDP của cả nước; tỷ lệ đóng góp vào GDP đạt từ 6-6,5%, doanh thu năm 2022 ước đạt 148 tỷ USD, tăng trưởng 8,7% so với năm 2021; là lĩnh vực có thế mạnh xuất khẩu, phù hợp với năng lực, đặc thù của Việt Nam.
3. Chuyển dịch các doanh nghiệp công nghệ số Việt Nam chủ yếu từ lắp ráp, gia công sang sáng tạo, thiết kế, tích hợp, sản xuất và làm chủ công nghệ lõi
Trong xu thế tất yếu của chuyển đổi số, việc tạo hành lang pháp lý để phát triển ngành công nghiệp công nghệ số, chuyển dịch từ lắp ráp, gia công sang thiết kế, sản xuất các sản phẩm công nghệ số, nền tảng số để phục vụ chuyển đổi số quốc gia, Chính phủ số, kinh tế số, xã hội số là cần thiết nhằm bảo đảm chủ quyền số quốc gia.
4. Tạo thị trường cho công nghiệp công nghệ số và thúc đẩy phát triển sản phẩm công nghệ số thiết kế và sản xuất trong nước
Dân số Việt Nam gần 100 triệu người, đứng thứ 15 thế giới, là thị trường lớn để nuôi dưỡng và phát triển doanh nghiệp công nghệ số Việt Nam. Tuy nhiên, pháp luật hiện hành chưa quy định biện pháp đột phá để phát triển thị trường trong nước cho doanh nghiệp công nghệ số, đặc biệt là các doanh nghiệp công nghệ số vừa và nhỏ. Để công nghiệp công nghệ số phát triển nhanh đi đôi với phát triển bền vững, cần có chính sách thúc đẩy doanh nghiệp phát triển các sản phẩm công nghệ số thiết kế và sản xuất trong nước. Tuy nhiên, pháp luật hiện hành chưa có quy định xác định và chính sách thúc đẩy phát triển sản phẩm công nghệ số thiết kế và sản xuất trong nước.
Trên cơ sở đó, việc đề xuất xây dựng Luật Công nghiệp công nghệ số là rất cần thiết để kịp thời bổ sung, thể chế hóa đầy đủ chủ trương, định hướng của Đảng, Nhà nước và đáp ứng các yêu cầu từ thực tiễn, đáp ứng các yêu cầu phát triển mới của ngành công nghiệp công nghệ số Việt Nam.
5. MỤC ĐÍCH VÀ QUAN ĐIỂM XÂY DỰNG LUẬT
5.1. Mục đích
- Thúc đẩy phát triển công nghiệp công nghệ số trở thành ngành kinh tế đóng góp lớn vào kinh tế đất nước; Việt Nam trở thành môi trường thuận lợi nhất để nuôi dưỡng và phát triển doanh nghiệp công nghệ số.
- Phát triển ngành công nghiệp công nghệ số với trọng tâm là các doanh nghiệp công nghệ số Việt Nam, chuyển dịch từ lắp ráp, gia công sang sáng tạo, thiết kế, sản xuất tại Việt Nam; góp phần xây dựng chính phủ số, động lực phát triển kinh tế số, xã hội số.
- Khẳng định giá trị pháp lý của công nghiệp công nghệ số; hình thành các quy định, chính sách để thúc đẩy phát triển công nghiệp công nghệ số. Thay thế các nội dung về công nghiệp CNTT và dịch vụ CNTT trong Luật Công nghệ thông tin bằng các nội dung của Luật Công nghiệp công nghệ số.
5.2. Quan điểm xây dựng Luật
Một là, thể chế hóa các chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách của Nhà nước về phát triển ngành công nghiệp công nghệ số; khắc phục các hạn chế, bất cập hiện nay; mặt khác cần quy định cụ thể, tạo hành lang pháp lý rõ ràng để thúc đấy phát triển ngành công nghiệp công nghệ số.
Hai là, Luật Công nghiệp công nghệ số sẽ được xây dựng trên cơ sở kế thừa có chọn lọc các quy định còn phù hợp của Luật Công nghệ thông tin và các văn bản hướng dẫn thi hành về công nghiệp CNTT, đồng thời có sửa đổi, bổ sung các nội dung mới trên cơ sở tham khảo có chọn lọc pháp luật và kinh nghiệm quốc tế để vận dụng phù hợp với thực tiễn của Việt Nam nhằm đáp ứng các yêu cầu phát triển của công nghiệp 4.0 và kinh tế số nói riêng.
Ba là, Luật Công nghiệp công nghệ số không làm thay đổi về trách nhiệm quản lý nhà nước của các bộ, ngành trong các lĩnh vực. Sản phẩm, dịch vụ công nghệ số khi ứng dụng trong lĩnh vực thuộc bộ, ngành nào thì bộ, ngành đó chịu trách nhiệm quản lý đúng theo lĩnh vực đó.
6. PHẠM VI ĐIỀU CHỈNH, ĐỐI TƯỢNG ÁP DỤNG CỦA LUẬT
6.1. Phạm vi điều chỉnh
Luật quy định về công nghiệp công nghệ số, bao gồm hoạt động công nghiệp công nghệ số và bảo đảm phát triển công nghiệp công nghệ số tại Việt Nam; Luật không quy định về các sản phẩm, dịch vụ công nghệ số được sản xuất, cung cấp phục vụ quốc phòng, an ninh.
Hiện nay, dự thảo Luật Công nghiệp quốc phòng, an ninh và động viên công nghiệp đã trình Quốc hội tại Kỳ họp thứ VI tháng 10 - 11 năm 2023, điều chỉnh về hoạt động sản xuất, dịch vụ công nghiệp phục vụ quốc phòng, an ninh, trong đó có quy định về sản phẩm quốc phòng, an ninh, về công nghệ lưỡng dụng, bao gồm cả các thiết bị thiết bị điện tử, vi điện tử, quang điện tử; thiết bị viễn thông, tin học... là những loại sản phẩm cũng thuộc phạm vi công nghiệp công nghệ số. Việc loại trừ không điều chỉnh các sản phẩm, dịch vụ công nghệ số được sản xuất, cung cấp phục vụ quốc phòng, an ninh để bảo đảm tránh chồng chéo trong hệ thống pháp luật.
6.2. Đối tượng áp dụng
Luật này áp dụng đối với tổ chức, cá nhân Việt Nam, tổ chức, cá nhân nước ngoài tham gia hoặc có liên quan đến hoạt động công nghiệp công nghệ số và bảo đảm phát triển công nghiệp công nghệ số.
7. NỘI DUNG CỦA CHÍNH SÁCH BẢO ĐẢM PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP CÔNG NGHỆ SỐ
7.1. Chính sách thị trường công nghiệp công nghệ số
1.1. Mục tiêu của chính sách:
- Minh bạch nhu cầu đầu tư, mua sắm sản phẩm, dịch vụ công nghệ số.
- Xây dựng và phát triển thương hiệu ngành công nghiệp công nghệ số Việt Nam.
- Hỗ trợ doanh nghiệp có hoạt động công nghiệp công nghệ số.
- Thúc đẩy phát triển sản phẩm, dịch vụ công nghệ số thiết kế và sản xuất trong nước, thương mại hóa sản phẩm, dịch vụ công nghệ số. Thúc đẩy các doanh nghiệp nghiên cứu, sáng tạo, làm chủ công nghệ và phát triển sản xuất sản phẩm, dịch vụ công nghệ số.
1.2. Nội dung chính sách:
Quy định các biện pháp phát triển thị trường công nghiệp công nghệ số, trong đó biện pháp chính là: Công bố nhu cầu đầu tư, mua sắm sản phẩm, dịch vụ công nghệ số; quy định xây dựng và phát triển thương hiệu ngành công nghiệp công nghệ số Việt Nam; quy định về hỗ trợ doanh nghiệp có hoạt động công nghiệp công nghệ số; ưu tiên sản phẩm, dịch vụ công nghệ số thiết kế và sản xuất trong nước, cụ thể như sau:
          - Quy định công bố chương trình, dự án, kế hoạch đã triển khai và nhu cầu đầu tư, mua, thuê sản phẩm, dịch vụ công nghệ số; chịu trách nhiệm về các thông tin công bố (qua Hệ thống quản lý, thúc đẩy công nghiệp công nghệ số quốc gia).
- Quy định về thương hiệu ngành công nghiệp công nghệ số Việt Nam (xây dựng biểu trưng, slogan, quản lý phát triển thương hiệu, nâng cao chất lượng sản phẩm, truyền thông và xúc tiến thương mại, tôn vinh sản phẩm, dịch vụ công nghệ số thương hiệu Việt Make in Viet Nam hàng năm,...) và giao Bộ Thông tin và Truyền thông tổ chức triển khai theo thẩm quyền.
- Quy định về hỗ trợ doanh nghiệp có hoạt động công nghiệp công nghệ số, gồm: Doanh nghiệp có hoạt động công nghiệp công nghệ số; Doanh nghiệp sản xuất, cung cấp sản phẩm, dịch vụ công nghệ số trọng điểm; Doanh nghiệp sản xuất, cung cấp sản phẩm, dịch vụ công nghệ số thiết kế và sản xuất trong nước được hỗ trợ đánh giá phù hợp tiêu chuẩn; Doanh nghiệp nhỏ và vừa có hoạt động công nghiệp công nghệ số; Cơ chế đặt hàng, giao nhiệm vụ cho một số doanh nghiệp trong nước có quy mô lớn, có đủ năng lực thực hiện một số nhiệm vụ có tính chiến lược, dẫn dắt phát triển công nghiệp công nghệ số,... và giao Chính phủ quy định theo thẩm quyền.
- Quy định ưu tiên sản phẩm, dịch vụ công nghệ số thiết kế và sản xuất trong nước (Quy định tiêu chí xác định tỷ lệ nội địa hóa sản phẩm, dịch vụ công nghệ số được thiết kế và sản xuất trong nước; ưu tiên đầu tư, thuê, mua sắm các sản phẩm, dịch vụ công nghệ số thiết kế và sản xuất trong nước; Quy định cơ quan nhà nước phải đầu tư, thuê, mua sắm sản phẩm, dịch vụ công nghệ số thiết kế và sản xuất trong nước đã đạt tỷ lệ nội địa hóa theo quy định. Quy định các trường hợp ngoại lệ không áp dụng),…và giao Chính phủ quy định chi tiết theo thẩm quyền.
1.3. Lý do lựa chọn giải pháp:
- Nhằm thể chế hóa những chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước tại Nghị quyết số 29-NQ/TW: “chuyển dịch nhanh từ gia công, lắp ráp sang nghiên cứu, thiết kế và sản xuất tại Việt Nam”; “tăng cường chính sách đặt hàng, giao nhiệm vụ sản xuất, chính sách mua sắm công theo hướng ưu tiên sử dụng hàng hóa trong nước, nâng cao giá trị gia tăng và tỷ lệ nội địa hóa”; “phát triển doanh nghiệp trong nước là động lực chính”,…
- Chính sách này sẽ khắc phục được tồn tại, hạn chế của các chính sách hiện hành; làm cơ sở để áp dụng chính sách ưu đãi đúng trọng tâm, đúng đối tượng; tăng cường hoạt động thực thi chính sách ưu đãi, hỗ trợ phát triển thị trường công nghiệp công nghệ số; xây dựng được hình ảnh thương hiệu ngành; hỗ trợ doanh nghiệp về hạ tầng nghiên cứu phát triển để sản xuất các sản phẩm, dịch vụ công nghệ số; hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa sản xuất và phân phối các sản phẩm, dịch vụ công nghệ số; thông qua cơ chế đặt hàng sản phẩm công nghệ số trọng điểm sẽ hình thành các doanh nghiệp, tập đoàn công nghệ số lớn có khả năng tạo ra các sản phẩm, dịch vụ công nghệ số giải được các bài toán chuyển đổi số của Việt Nam, vươn ra thị trường thế giới. Doanh nghiệp sản xuất, cung cấp sản phẩm, dịch vụ công nghệ số thiết kế và sản xuất trong nước được tiếp cận các hỗ trợ của Nhà nước, tăng hiệu quả kinh tế của doanh nghiệp.
7.2. Chính sách Hợp tác quốc tế trong công nghiệp công nghệ số
2.1. Mục tiêu của chính sách:
- Mở rộng được ra thị trường nước ngoài cho các doanh nghiệp công nghệ số Việt Nam.
- Có biện pháp quản lý, ứng xử phù hợp với các sản phẩm, dịch vụ công nghệ số xuyên biên giới từ nước ngoài vào Việt Nam.
2.2.2. Nội dung chính sách:
- Quy định các hoạt động hợp tác quốc tế (tham gia các tổ chức quốc tế; thực hiện các chương trình, dự án về công nghiệp công nghệ số song phương, đa phương; ký kết, gia nhập và thực hiện các điều ước quốc tế; hội nghị, hội thảo, diễn đàn, triển lãm; tìm kiếm chuyên gia, cơ hội chuyển giao sản phẩm, dịch vụ công nghệ số, cơ hội hợp tác với các tổ chức, doanh nghiệp công nghệ số nước ngoài; ...).
- Quy định các chính sách, biện pháp phát triển thị trường nước ngoài của các sản phẩm, dịch vụ công nghệ số Việt Nam (phát triển, quảng bá thương hiệu sản phẩm Make in Viet Nam ra thị trường nước ngoài, thiết lập và cung cấp hệ thống thông tin xúc tiến thương mại,…).
- Quy định nguyên tắc quản lý hoạt động kinh doanh sản phẩm, dịch vụ công nghệ số xuyên biên giới từ nước ngoài vào Việt Nam.
- Giao Chính phủ quy định chi tiết theo thẩm quyền.
2.3. Lý do lựa chọn:
- Thể chế hóa những chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước tại Nghị quyết số 29-NQ/TW về “chủ động và tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng, hiệu quả”; “hoàn thiện khung pháp luật cho hoạt động đầu tư ra nước ngoài của doanh nghiệp Việt Nam”.
- Phát triển thị trường nước ngoài là một trong những giải pháp hữu hiệu để giúp cộng đồng doanh nghiệp công nghệ số Việt Nam lớn mạnh, tham gia vào chuỗi sản xuất và thị trường công nghệ số thế giới. Quản lý hoạt động cung cấp sản phẩm, dịch vụ công nghệ số xuyên biên giới từ nước ngoài vào Việt Nam là cần thiết để đảm bảo chủ quyền quốc gia và hỗ trợ cho phát triển các sản phẩm, dịch vụ công nghệ số thiết kế và sản xuất trong nước.
7.3. Chính sách Nguồn nhân lực công nghệ số
3.1. Mục tiêu của chính sách:
Phát triển nguồn nhân lực công nghệ số: hình thành chuẩn kỹ năng công nghệ số, chính sách đào tạo thực tế tại doanh nghiệp, thu hút nhân lực chất lượng cao về làm việc tại Việt Nam.
2.3.2. Nội dung chính sách:
Quy định cụ thể về chính sách nguồn nhân lực công nghệ số dựa trên cơ sở kế thừa Luật Công nghệ thông tin có phát triển, bổ sung một số quy định để đảm bảo sự phát triển nguồn nhân lực công nghệ số cả về quy mô và chất lượng, phù hợp với xu thế phát triển của lĩnh vực, gồm:
- Quy định về chuẩn kỹ năng công nghệ số.
- Quy định công nhận chứng chỉ của nước ngoài đáp ứng chuẩn kỹ năng công nghệ số.
- Quy định thu hút nhân lực công nghệ số chất lượng cao: khái niệm; ưu đãi; sử dụng nhân lực công nghệ số chất lượng cao.
- Quy định phát triển quy mô và tăng cường chất lượng đào tạo nguồn nhân lực công nghệ số gồm đào tạo và đào tạo lại nguồn nhân lực; thúc đẩy hợp tác giữa cơ sở đào tạo và doanh nghiệp; dự báo nguồn nhân lực; khuyến khích hoạt động đào tạo nhân lực theo hình thức trực tuyến; tin học là môn học bắt buộc trong các cấp trung học cơ sở, phổ thông trung học.
- Quy định đào tạo nguồn nhân lực hỗ trợ người dân sử dụng sản phẩm, dịch vụ công nghệ số.
          3.3. Lý do lựa chọn:
- Thể chế hóa những chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước tại Nghị quyết số 29-NQ/TW về “tập trung đào tạo chuyên gia, nhân lực chất lượng cao, lao động kỹ thuật trong các lĩnh vực công nghiệp nền tảng” (trong đó có công nghiệp công nghệ số); “khuyến khích phát triển các nền tảng dạy và học trực tuyến mở, các mô hình đại học mới thích ứng với quá trình chuyển đổi số”.
- Quy định về phát triển nguồn nhân lực công nghệ số cho ngành công nghiệp công nghệ số như đề xuất là những chính sách hữu hiệu, cụ thể của Nhà nước để tạo nguồn nhân lực công nghệ số đủ về chất lượng và số lượng (mục tiêu đến năm 2030 đạt 1,8 triệu lao động trong lĩnh vực công nghiệp công nghệ số).
- Sự cạnh tranh trong thu hút nhân lực công nghiệp công nghệ số trên thị trường tuyển dụng diễn ra gay gắt, đặc biệt nhân lực có trình độ cao, nắm bắt được các công nghệ mới. Trong xu thế chuyển đổi số (xây dựng Chính phủ số, phát triển kinh tế số, xây dựng xã hội số), xu thế phát triển công nghệ số của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4, phát triển công nghiệp công nghệ số, nhu cầu về nguồn nhân lực công nghiệp công nghệ số là rất lớn.
- Các giải pháp trong đề nghị xây dựng Luật giúp chuẩn hóa nguồn nhân lực công nghệ số, giúp rút ngắn khoảng cách giữa đào tạo tại các cơ sở đào tạo và yêu cầu của thực tiễn, tăng số lượng và chất lượng nguồn nhân lực công nghiệp công nghệ số, đào tạo và đào tạo lại đảm bảo nguồn nhân lực công nghệ số đáp ứng cho công cuộc chuyển đổi số quốc gia và cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4.
7.4. Chính sách cơ chế tài chính, ưu đãi cho công nghiệp công nghệ số
4.1. Mục tiêu chính sách:
- Vốn, đầu tư phát triển công nghiệp công nghệ số: Sử dụng các quỹ (hiện có) để phục vụ hoạt động công nghiệp công nghệ số (Tài trợ, hỗ trợ đầu tư, cho vay, bảo lãnh vốn vay, hỗ trợ các hoạt động…).
- Làm rõ các mức ưu đãi, đầu tư đối với các đối tượng tại pháp luật về đầu tư, thuế cũng như xây dựng các chính sách ưu đãi phù hợp đối với các loại hình công nghệ số mới. Từ đó có chính sách ưu đãi cụ thể nhằm thu hút đầu tư và thúc đẩy công nghệ số; phát triển sản phẩm, dịch vụ công nghệ số thiết kế và sản xuất trong nước; sản phẩm, dịch vụ công nghệ số trọng điểm.
2.4.2. Nội dung chính sách: Quy định về các cơ chế tài chính, ưu đãi cho công nghiệp công nghệ số, gồm:
- Quy định nguồn kinh phí và nội dung chi cho công nghiệp công nghệ số.
- Quy định về sử dụng Quỹ Phát triển khoa học và công nghệ quốc gia hỗ trợ công nghiệp công nghệ số (Tài trợ, hỗ trợ đầu tư, cho vay, bảo lãnh vốn vay, hỗ trợ các hoạt động,…).
- Quy định về các giải pháp, nội dung hỗ trợ đầu tư phát triển cho công nghiệp CNTT như ưu đãi đầu tư, thu hút đầu tư cho công nghiệp công nghệ số; chính sách ưu tiên sản phẩm, dịch vụ công nghệ số thiết kế và sản xuất trong nước; sản phẩm, dịch vụ công nghệ số trọng điểm. Công nghiệp công nghệ số là hoạt động được ưu đãi đầu tư.
- Quy định chính sách ưu đãi đầu tư, thu hút đầu tư, thu hút đầu tư có cam kết đối với doanh nghiệp FDI[2] cho công nghiệp công nghệ số; sản phẩm, dịch vụ công nghệ số thiết kế và sản xuất trong nước; sản phẩm, dịch vụ công nghệ số trọng điểm; sản phẩm, dịch vụ công nghệ số sử dụng mã nguồn mở, công nghệ mở,… và giao Chính phủ quy định chi tiết theo thẩm quyền.
4.3. Lý do lựa chọn:
- Thể chế hóa những chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước tại Nghị quyết số 29-NQ/TW về: “nâng cao hiệu quả quản lý, khai thác, huy động, phân bổ, sử dụng các nguồn lực tài chính theo nguyên tắc thị trường”; “tiếp tục đa dạng hóa các hình thức huy động và sử dụng nguồn lực”; “thúc đẩy xã hội hóa, thu hút mạnh mẽ nguồn lực đầu tư ngoài nhà nước cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo hướng lấy đầu tư công dẫn dắt đầu tư tư nhân”; “thực hiện các chính sách ưu đãi về tài chính, tín dụng đủ mạnh để thúc đẩy phát triển các ngành công nghiệp nền tảng, công nghiệp ưu tiên, công nghiệp mũi nhọn” (trong đó có công nghiệp công nghệ số).
- Các quy định về cơ chế tài chính, ưu đãi cho công nghiệp công nghệ số như trên sẽ khắc phục được tồn tại, hạn chế của các chính sách hiện hành; thể hiện vai trò kiến tạo, định hướng của Nhà nước trong việc lựa chọn và tập trung những hoạt động cần thiết phải thúc đẩy, ưu tiên phát triển đúng trọng tâm, đúng đối tượng; tăng cường hoạt động thực thi chính sách ưu đãi, hỗ trợ ngành công nghiệp công nghệ số; Tạo nguồn lực của nhà nước và xã hội trong đầu tư phát triển công nghiệp công nghệ số. Thể hiện quyết tâm của Nhà nước trong thúc đẩy công nghiệp công nghệ số, thể chế hóa chủ trương, định hướng của Đảng “Quan tâm đầu tư đúng mức nghiên cứu khoa học cơ bản; tập trung nghiên cứu, ứng dụng công nghệ lõi, công nghệ số”[3]; “Ưu tiên nguồn lực cho triển khai một số chương trình nghiên cứu trọng điểm quốc gia về các công nghệ ưu tiên, trọng tâm là: Công nghệ thông tin và truyền thông”[4] ; “Đầu tư cho công nghệ thông tin là đầu tư cho phát triển và bảo vệ đất nước, cần được đi trước một bước,... Áp dụng mức ưu đãi cao nhất về thuế, đất đai, tín dụng cho hoạt động nghiên cứu, sản xuất và dịch vụ công nghệ thông tin”[5].
- Chính sách này phù hợp với kinh nghiệm các nước như Hàn Quốc, Trung Quốc, Hoa Kỳ,… trong thúc đẩy công nghiệp ICT phát triển (ngân sách để phát triển công nghiệp ICT, chính sách ưu đãi thuế,…).
7.5. Chính sách Quản lý chất lượng sản phẩm, dịch vụ công nghệ số
5.1. Mục tiêu chính sách:
- Khuyến khích tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động xây dựng tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật cho sản phẩm, dịch vụ công nghệ số. Thúc đẩy nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ công nghệ số tại Việt Nam.
- Có chính sách hỗ trợ các tổ chức, cá nhân trong hoạt động đánh giá sản phẩm, dịch vụ công nghệ số trọng điểm phù hợp với tiêu chuẩn trong nước và quốc tế để thúc đẩy hoạt động tiêu chuẩn hóa tại Việt Nam.
2.5.2. Nội dung chính sách:
-  Quy định hoạt động quản lý chất lượng sản phẩm, dịch vụ công nghệ số thực hiện theo quy định của pháp luật về tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật và chất lượng sản phẩm, hàng hóa;
- Khuyến khích tổ chức, cá nhân tham gia sản xuất, cung cấp sản phẩm, dịch vụ công nghệ số xây dựng và công bố tiêu chuẩn cơ sở và phải bảo đảm sản phẩm, dịch vụ của mình phù hợp với tiêu chuẩn đã công bố;
- Trách nhiệm của các bộ, ngành trong việc ban hành, công bố sản phẩm, dịch vụ cần áp dụng tiêu chuẩn, quy chuẩn.
5.3. Lý do lựa chọn:
Quy định hoạt động quản lý chất lượng sản phẩm, dịch vụ công nghệ số với nội hàm như trên sẽ giúp nâng cao tính chủ động và trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt động xây dựng và quản lý chất lượng sản phẩm, dịch vụ công nghệ số, thúc đẩy hoạt động tiêu chuẩn hóa trong lĩnh vực công nghệ số tại Việt Nam, góp phần nâng cao chất lượng, giá trị, thương hiệu của sản phẩm, dịch vụ công nghệ số, tạo niềm tin của xã hội vào chất lượng sản phẩm, dịch vụ công nghệ số của các doanh nghiệp, phát triển bền vững công nghiệp công nghệ số.
7.6. Chính sách Cơ chế thử nghiệm sản phẩm, dịch vụ công nghệ số
6.1. Mục tiêu chính sách:
Quy định cơ chế thử nghiệm các sản phẩm, dịch vụ công nghệ số ứng dụng vào các ngành, lĩnh vực tạo ra mô hình kinh doanh mới mà chưa được điều chỉnh bởi quy định pháp luật hiện hành hoặc pháp luật có quy định khác.
2.6.2. Nội dung chính sách:
Quy định các biện pháp thúc đẩy phát triển sản phẩm, dịch vụ công nghệ số mới ứng dụng vào các ngành, lĩnh vực kinh tế - xã hội thông qua cơ chế thử nghiệm sản phẩm, dịch vụ công nghệ số.
- Luật sẽ xác định cơ quan đầu mối xử lý các đề xuất về triển khai cơ chế thử nghiệm sản phẩm, dịch vụ công nghệ số;
- Quy định các điều kiện và tiêu chí tham gia cơ chế thử nghiệm; hồ sơ, quy trình, thủ tục, trách nhiệm xử lý các đề xuất triển khai cơ chế thử nghiệm;
- Thời hạn và phạm vi thử nghiệm; gia hạn, kết thúc thử nghiệm; giám sát, đánh giá thử nghiệm;
- Trách nhiệm của các bên liên quan; hoàn thiện hành lang pháp luật liên quan,…
- Giao Chính phủ quy định chi tiết theo thẩm quyền.
6.3. Lý do lựa chọn:
- Thể chế hóa những chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước tại Nghị quyết số 29-NQ/TW về:“ban hành cơ chế thử nghiệm có kiểm soát, các chính sách thí điểm, đặc thù cho các hoạt động phát triển, thử nghiệm và áp dụng các sản phẩm, giải pháp, dịch vụ, mô hình kinh doanh dựa trên công nghệ số”; và Nghị quyết 52-NQ/TW về: “Xây dựng cơ chế quản lý phù hợp với môi trường kinh doanh số, tạo thuận lợi cho đổi mới sáng tạo; Sớm ban hành khung thể chế thử nghiệm có kiểm soát đối với các công nghệ, sản phẩm, dịch vụ, mô hình kinh doanh mới hình thành từ cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Quy định rõ phạm vi không gian và thời gian thử nghiệm”.
- Chính sách thử nghiệm sản phẩm, dịch vụ công nghệ số sẽ góp phần phát triển kinh tế, tiết kiệm chi phí cho người dân, doanh nghiệp. Đây có thể coi là biện pháp quản lý linh hoạt, phù hợp nhất đối với công nghệ số mới giúp cho các cơ quan quản lý không bị động, bảo đảm được nguyên tắc quản trị rủi ro phù hợp là cái gì rõ thì ban hành chính sách cụ thể, cái gì chưa rõ thì cho phép thử nghiệm, vừa làm, vừa đánh giá, rút kinh nghiệm và điều chỉnh, không cầu toàn, cũng không nóng vội, linh hoạt và sáng tạo. Chính sách này đã được kiểm nghiệm trong thực tế triển khai tại Hàn Quốc. Hàn Quốc đưa ra các quy định để quản lý, thúc đẩy các sản phẩm, dịch vụ công nghệ số mới thông qua chính sách cho phép triển khai theo hình thức cấp phép tạm thời, miễn trừ tạm thời để thí điểm triển khai các sản phẩm, dịch vụ công nghệ số trong trường hợp pháp luật liên quan khác có quy định cấm hoặc có quy định không rõ ràng, không hợp lý để triển khai.
7.7. Chính sách Thông tin về công nghiệp công nghệ số
7.1. Mục tiêu chính sách:
- Hỗ trợ cơ quan quản lý nhà nước hiện đại hóa hoạt động nắm bắt, thu thập, xử lý và quản trị dữ liệu về ngành công nghiệp, phục vụ cho việc hoạch định xây dựng chính sách quản lý cũng như thúc đẩy phát triển ngành.
- Giúp các tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động công nghiệp công nghệ số nâng cao hiệu quả quản lý, khai thác và sử dụng thông tin, dữ liệu phục vụ cho sự phát triển, đóng góp cho sự phát triển kinh tế - xã hội chung của ngành và đất nước.
- Hình thành Hệ thống quản lý, thúc đẩy công nghiệp công nghệ số quốc gia thống nhất, đồng bộ từ trung ương tới địa phương.
7.2. Nội dung chính sách:
- Quy định cung cấp thông tin công nghiệp công nghệ số, bao gồm: Thông tin công nghiệp công nghệ số (hoạt động sản xuất kinh doanh; hoạt động nghiên cứu phát triển; thông tin thị trường, xu hướng công nghệ…); trách nhiệm cung cấp thông tin công nghiệp công nghệ số.
- Quy định Hệ thống quản lý, thúc đẩy công nghiệp công nghệ số quốc gia (khái niệm; mô hình hoạt động; quy định việc xây dựng, quản lý, vận hành, khai thác, …).
- Quy địnhcơ sở dữ liệu công nghiệp công nghệ số (khái niệm; mô hình hoạt động; quy định việc xây dựng, quản lý, vận hành, khai thác, …)
- Quy định công khai thông tin phục vụ phát triển công nghiệp công nghệ số (Xây dựng và chia sẻ cơ sở dữ liệu mở về công nghiệp công nghệ số; việc mở mã nguồn đối với những dự án, đề án nghiên cứu phát triển phần mềm của chính phủ để tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân khai thác).
7.3. Lý do lựa chọn:
- Thực hiện đồng bộ với sự phát triển của thực tiễn: Trước là công nghiệp CNTT, hiện nay là công nghiệp công nghệ số.
- Hình thành chính sách thống nhất và đồng bộ góp phần thúc đẩy phát triển của doanh nghiệp công nghệ số, sản phẩm công nghệ số thiết kế và sản xuất trong nước đáp ứng yêu cầu đặt ra trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4.
- Hình thành Hệ thống quản lý, thúc đẩy công nghiệp công nghệ số quốc gia thống nhất, đồng bộ từ trung ương tới địa phương.
- Hỗ trợ các tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân trong hoạt động nghiên cứu, phát triển sản phẩm, dịch vụ công nghệ số do tận dụng được kết quả nghiên cứu phát triển của cơ quan nhà nước.
7.8. Chính sách Dữ liệu số trong công nghiệp công nghệ số
8.1. Mục tiêu chính sách:
- Hỗ trợ thúc đẩy phát triển dữ liệu số phục vụ phát triển công nghiệp công nghệ số và phát triển kinh tế số.
- Hỗ trợ quản lý và giám sát được luồng dữ liệu số xuyên biên giới nhằm đo lường thị trường dữ liệu, đảm bảo an toàn dữ liệu, hỗ trợ công tác quản lý nhà nước của các ngành, lĩnh vực khác.
- Hỗ trợ thúc đẩy phát triển thị trường dữ liệu số minh bạch, bình đẳng tạo điều kiện chia sẻ dữ liệu giữa các cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp thúc đẩy sự phát triển của công nghệ số, công nghiệp công nghệ số và kinh tế số.
2.8.2. Nội dung chính sách:
- Quy định về các hoạt động dữ liệu số: khái niệm, quyền và trách nhiệm tổ chức cá nhân trong thu thập, khai thác phân tích dữ liệu số và xây dựng, quản trị hệ thống dữ liệu số; khái niệm, quyền và trách nhiệm tổ chức cá nhân trong sử dụng, chuyển giao, lưu trữ dữ liệu số, …
- Quy định bảo đảm an toàn dữ liệu số trong cơ quan nhà nước; Bảo đảm an toàn dữ liệu số trong tổ chức, doanh nghiệp.
- Quy định việc thu thập, sử dụng và kinh doanh dữ liệu số xuyên biên giới, gồm: Quy định về quản lý thông tin luồng dữ liệu số được thu thập, sử dụng và kinh doanh dữ liệu số của các tổ chức, cá nhân trong nước và ngoài nước trên hệ thống quản lý, thúc đẩy công nghiệp công nghệ số; quyền và nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân trong nước và ngoài nước trong việc thu thập, sử dụng và kinh doanh dữ liệu số xuyên biên giới.
- Quy định nguyên tắc quản lý chung về dữ liệu số trong công nghiệp công nghệ số (minh bạch dữ liệu số; quyền sở hữu và sử dụng dữ liệu số; chống độc quyền dữ liệu số; hợp đồng mẫu về dữ liệu số; trao đổi, giao dịch dữ liệu số; ưu tiên phát triển dữ liệu số) và giao Chính phủ quy định chi tiết theo thẩm quyền.
8.3. Lý do lựa chọn:
- Thể chế hóa những chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước tại Nghị quyết 52-NQ/TW về: “hoàn thiện pháp luật, chính sách về dữ liệu, quản trị dữ liệu, tạo thuận lợi cho việc tạo dựng, kết nối, chia sẻ và khai thác dữ liệu bảo đảm an toàn, an ninh mạng trong nước, tiến tới kết nối với khu vực ASEAN và quốc tế”; “Hình thành các hệ thống dữ liệu tin cậy, ổn định của Nhà nước và doanh nghiệp. Đầu tư trang bị các hệ thống thiết bị thu thập, lưu trữ, xử lý, bảo vệ dữ liệu công”.
- Hiện nay, đa phần sản phẩm công nghệ số cần dữ liệu số như một yếu tố đầu vào, đặc biệt là các sản phẩm dựa trên các công nghệ mới của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4 như phân tích dữ liệu, trí tuệ nhân tạo (AI), blockchain, Internet of thing (IoT), điện toán đám mây,... Việc thiếu chính sách về dữ liệu số hiện nay sẽ làm giảm động lực phát triển của ngành công nghiệp công nghệ số nói riêng, kinh tế số nói chung. Giải pháp đề xuất trong Luật sẽ giúp tạo hành lang pháp lý để phát triển dữ liệu số. Hiện nay, nhiều nước trên thế giới đang nghiên cứu xây dựng và ban hành các quy định về quản lý, thúc đẩy phát triển dữ liệu số nhằm tạo ra giá trị kinh tế từ dữ liệu số.
7.9. Chính sách Vi mạch bán dẫn
9.1. Mục tiêu chính sách:
- Định danh và quy định các biện pháp thúc đẩy phát triển hoạt động sản xuất sản phẩm vi mạch bán dẫn tại Việt Nam.
9.2. Nội dung chính sách:
- Quy định về hoạt động sản xuất (bao gồm thiết kế, chế tạo, đóng gói, kiểm thử, chuyển giao công nghệ, ...) và dịch vụ kèm theo.
- Quy định về hoạt động nghiên cứu, phát triển, chuyển giao công nghệ thiết bị chế tạo vi mạch bán dẫn và các công nghệ liên quan.
- Doanh nghiệp, tổ chức tham gia hoạt động sản xuất sản phẩm vi mạch bán dẫn được: Hỗ trợ hoạt động nghiên cứu, thiết kế (sử dụng phòng thí nghiệm dùng chung, tham gia khu công nghệ số,…); hỗ trợ tham gia các nền tảng số kết nối nhà thiết kế, cơ sở nghiên cứu và các doanh nghiệp.
9.3. Lý do lựa chọn:
- Thể chế hóa những chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước tại Nghị quyết 29-NQ/TW về “Ưu tiên nguồn lực và có cơ chế, chính sách khuyến khích đủ mạnh để phát triển những lĩnh vực ưu tiên của các ngành công nghiệp nền tảng: “…; công nghệ số (ưu tiên phát triển trí tuệ nhân tạo, dữ liệu lớn, chuỗi khối, điện toán đám mây, internet kết nối vạn vật, thiết bị điện tử - viễn thông, thiết kế và sản xuất chíp bán dẫn).
- Vi mạch bán dẫn là một phần không thể thiếu của ngành công nghiệp công nghệ số, là chìa khóa cho các công nghệ số của tương lai như AI, 5G/6G, ứng dụng trong nhiều sản phẩm kỹ thuật số như điện thoại thông minh, ô tô. Ngày càng có nhiều vi mạch bán dẫn được nhúng trong robot và máy móc sản xuất, trong công nghiệp và nông nghiệp, cũng như trong các phương tiện vận tải và các thiết bị khác. Nhu cầu về vi mạch bán dẫn dự kiến sẽ tăng gấp đôi trong một thập kỷ tới[6]. Các quốc gia lớn trên thế giới và khu vực đều có chính sách riêng cho ngành công nghiệp vi mạch bán dẫn, phù hợp với đặc thù và vị trí quốc gia đó trong chuỗi giá trị vi mạch toàn cầu. Do đó, Việt Nam cũng cần có quy định riêng để thúc đầy lĩnh vực quan trọng này.
7.10. Chính sách Khu công nghệ số tập trung
10.1. Mục tiêu chính sách:
- Xây dựng các tiêu chí, điều kiện và quy trình về thành lập, công nhận, mở rộng khu công nghệ số tập trung để đáp ứng yêu cầu phát triển thực tiễn và các cơ sở hạ tầng khác như trung tâm tính toán hiệu năng cao.
- Khái niệm, mô hình khu công nghệ số tập trung, trong đó bổ sung tính pháp lý cho mô hình chuỗi khu công nghệ số tập trung.
- Chính sách quản lý đất đai, ưu đãi và xây dựng khu công nghệ số tập trung.
- Chính sách đánh giá hiệu quả hoạt động, chế độ báo cáo đối với các khu công nghệ số tập trung.
10.2. Nội dung chính sách:
- Quy định về mô hình, tiêu chí khu công nghệ số tập trung (Khái niệm, mô hình, tiêu chí khu).
- Quy định quy trình đầu tư thành lập, mở rộng, công nhận khu công nghệ số tập trung.
- Quy định chính sách ưu đãi đối với khu công nghệ số tập trung; quản lý đất đai và xây dựng khu công nghệ số tập trung.
- Quy định tổ chức quản lý vận hành khu công nghệ số tập trung.
- Quy định khái niệm, mô hình, tiêu chí trung tâm tính toán hiệu năng cao phục vụ cho khu công nghệ số tập trung.
10.3. Lý do lựa chọn:
Quy định về khu công nghệ số tập trung như trên sẽ đáp ứng yêu cầu phát triển thực tiễn hiện nay, thu hút các tổ chức, doanh nghiệp tham gia hoạt động đầu tư xây dựng và hoạt động trong khu công nghệ số tập trung.
- Thể chế hóa những chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về: “Đổi mới mô hình tổ chức, cơ chế hoạt động của các khu công nghệ cao, khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, khu công nghệ thông tin tập trung” tại Nghị quyết 29-NQ/TW; “Phát huy hiệu quả các khu, cụm công nghiệp, khu công nghệ thông tin tập trung và đẩy mạnh phát triển công nghiệp theo hình thức cụm liên kết ngành, nhóm sản phẩm chuyên môn hóa và tạo thành các tổ hợp công nghiệp quy mô lớn, hiệu quả cao và theo lợi thế của các địa phương tại một số vùng, địa bàn trọng điểm” tại Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021-2030; Xây dựng mới một số khu công nghệ thông tin tập trung quy mô lớn, hình thành vùng động lực công nghiệp công nghệ thông tin, thu hút đầu tư sản xuất các sản phẩm điện, điện tử, các sản phẩm Internet vạn vật (IoT), trí tuệ nhân tạo” và “Tiếp tục phát triển các khu công nghệ thông tin tập trung và thành viên chuỗi khu công viên phần mềm” tại Nghị quyết số 81/2023/QH15 ngày 9/1/2023 của Quốc hội về Quy hoạch tổng thể quốc gia thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050.
Đây là chính sách quan trọng trong lập đề nghị xây dựng Luật công nghiệp công nghệ số, chính sách này làm cơ sở đảm bảo cho các hoạt động công nghiệp công nghệ số tại Việt Nam.


[1] Luật Chip của Liên minh Châu Âu 2022
[2] Dự kiến quy định đạt tỷ lệ % nội địa hóa; tỷ lệ % đầu tư cho nghiên cứu phát triển tại Việt Nam; tỷ lệ % lao động Việt Nam; chuyển giao công nghệ
[3] Chiến lược KTXH 10 năm 2021 - 2030
[4] Nghị quyết số 52-NQ/TW ngày 27/9/2019 của Bộ Chính trị về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4
[5] Nghị quyết số 36-NQ/TW ngày 01/7/2014 của Bộ Chính trị (khoá XI) về đẩy mạnh ứng dụng, phát triển công nghệ thông tin đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững và hội nhập quốc tế
[6] Luật Chip của Liên minh Châu Âu 2022

Vụ Pháp chế