Luật Xuất bản được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam Khóa XIII, kỳ họp thứ 4, thông qua ngày 20/11/2012, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2013. Qua 10 năm triển khai thi hành, các quy định của Luật Xuất bản và các văn bản quy định chi tiết đã từng bước đi vào cuộc sống, tạo hành lang pháp lý khá thuận lợi cho hoạt động xuất bản có sự tăng trưởng và từng bước phát triển nhanh, mạnh cả về số lượng và chất lượng, phục vụ tốt các nhiệm vụ chính trị của đất nước và góp phần cải thiện, nâng cao nhu cầu đọc của nhân dân, khẳng định được vị trí, vai trò của hoạt động xuất bản thuộc lĩnh vực văn hóa tư tưởng, là công cụ sắc bén của Đảng.
Tuy nhiên, trong quá trình thực thi, bên cạnh những mặt ưu điểm, tích cực của Luật, cũng đã bộc lộ những tồn tại, bất cập, cũng như phát sinh nhiều vấn đề mới trong thực tiễn. Cụ thể:
1. Tồn tại, hạn chế trong triển khai pháp luật về xuất bản
- Việc cụ thể hóa các chính sách chung cho hoạt động xuất bản như: hỗ trợ đào tạo nguồn nhân lực; ưu đãi về thuế theo quy định của pháp luật cho hoạt động xuất bản; có chính sách thu hút các nguồn lực xã hội tham gia vào hoạt động xuất bản còn chậm, chưa hiệu quả.
- Một số chính sách đặc thù cho lĩnh vực xuất bản chưa được thực hiện như: Hỗ trợ kinh phí đầu tư xây dựng, hiện đại hóa cơ sở vật chất, ứng dụng, chuyển giao công nghệ - kỹ thuật tiên tiến; mua bản thảo đối với những tác phẩm có giá trị nhưng thời điểm xuất bản chưa thích hợp hoặc đối tượng sử dụng hạn chế; hỗ trợ mua bản quyền đối với tác phẩm trong nước và nước ngoài có giá trị phục vụ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội; ưu đãi lãi suất vay vốn theo quy định của pháp luật. Một số nơi chưa khai thác và sử dụng hiệu quả nguồn sách cung cấp từ các chương trình. Việc đặt hàng xuất bản sách cho người khiếm thị, người dân vùng sâu, vùng xa, miền núi, biên giới, hải đảo; mua bản thảo đối với những tác phẩm có giá trị nhưng thời điểm xuất bản chưa thích hợp hoặc đối tượng sử dụng hạn chế; hỗ trợ mua bản quyền đối với tác phẩm trong nước và nước ngoài có giá trị phục vụ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội chưa được thực hiện. Việc triển khai hỗ trợ kinh phí tổ chức hoạt động quảng bá văn hóa, đất nước, con người Việt Nam thông qua xuất bản phẩm, tổ chức triển lãm, hội chợ xuất bản phẩm trong và ngoài nước còn phân tán, hiệu quả chưa cao.
- Nhiều chính sách cho lĩnh vực in xuất bản phẩm chưa được triển khai hiệu quả, như: Hỗ trợ kinh phí đầu tư xây dựng, hiện đại hóa cơ sở vật chất, ứng dụng, chuyển giao công nghệ - kỹ thuật tiên tiến cho cơ sở in phục vụ nhiệm vụ chính trị, an ninh, quốc phòng, thông tin đối ngoại và cơ sở in tại vùng sâu, vùng xa, miền núi, biên giới, hải đảo. Một số chính sách quan trọng chưa được thực hiện như: Ưu đãi về tiền thuê đất để làm nhà xưởng và lãi suất vay vốn cho cơ sở in phục vụ nhiệm vụ chính trị, an ninh, quốc phòng, thông tin đối ngoại và cơ sở in tại vùng sâu, vùng xa, miền núi, biên giới, hải đảo.
- Các chính sách quan trọng cho lĩnh vực phát hành xuất bản phẩm chưa được thực hiện, như: Ưu tiên đầu tư quỹ đất và kinh phí xây dựng cơ sở vật chất cho hệ thống cơ sở phát hành xuất bản phẩm tại vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, vùng sâu, vùng xa, miền núi, biên giới, hải đảo; hỗ trợ cước vận chuyển xuất bản phẩm phục vụ nhiệm vụ, đối tượng và địa bàn đặc biệt theo quy định; hỗ trợ kinh phí tổ chức hoạt động quảng bá văn hóa, đất nước, con người Việt Nam thông qua xuất bản phẩm; tổ chức triển lãm, hội chợ xuất bản phẩm trong và ngoài nước; ưu đãi tiền thuê đất, thuê nhà thuộc sở hữu nhà nước; lãi suất vay vốn đối với cơ sở phát hành xuất bản phẩm.
- Việc tổ chức thực hiện các chính sách phát triển xuất bản điện tử tuy đã được quan tâm hơn nhưng kinh phí hỗ trợ còn thấp. Chưa xây dựng hệ thống thông tin dữ liệu đặc tả của xuất bản phẩm điện tử nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc tìm kiếm, truy nhập, quản lý và lưu trữ xuất bản phẩm điện tử.
- Chất lượng công tác thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm pháp luật trong hoạt động xuất bản tuy đã được nâng lên một bước nhưng có lúc, có nơi còn chậm. Một số cơ quan có trách nhiệm thanh tra, kiểm tra, giám sát với lực lượng mỏng, kiêm nhiệm, chồng chéo chức năng dẫn đến hạn chế về chất lượng và hiệu quả công tác. Một số nội dung phối hợp quản lý nhà nước giữa Trung ương với địa phương và giữa các bộ, ngành ở Trung ương với các Sở, ngành ở địa phương chưa chặt chẽ, thường xuyên, chưa đáp ứng yêu cầu công tác, như việc phối hợp phòng, chống in lậu, xâm phạm bản quyền sách trên môi trường mạng, chia sẻ thông tin, liên thông dữ liệu quản lý. Việc đấu tranh ngăn chặn hành vi xâm phạm bản quyền trong lĩnh vực xuất bản trên môi trường mạng còn nhiều khó khăn, hiệu quả chưa cao.
- Luật, Nghị định và Thông tư đã quy định, hướng dẫn chi tiết về thực hiện chế độ thông tin, các biểu mẫu báo cáo trong từng lĩnh vực xuất bản, in, phát hành, trong đó có phân cấp việc báo cáo giữa Trung ương và địa phương trong lĩnh vực in và phát hành. Tuy nhiên, ý thức chấp hành báo cáo của một số doanh nghiệp còn thấp, việc cung cấp số liệu chưa chuẩn xác, gây khó khăn cho công tác quản lý, đặc biệt là trong điều kiện các cơ quan quản lý hạn chế về số lượng nhân sự. Các cơ quan quản lý phải thường xuyên đôn đốc nhưng chưa có được kết quả như yêu cầu.
2. Hạn chế trong lĩnh vực xuất bản
- Việc sắp xếp các nhà xuất bản theo hướng tinh gọn, chất lượng, hiện đại hóa còn chậm. Chưa triển khai chủ trương: “Chuyển hầu hết các nhà xuất bản sang đơn vị sự nghiệp công lập có thu, trường hợp thật sự cần thiết, đủ điều kiện theo quy định của pháp luật thì cho phép chuyển sang công ty trách nhiệm hữu hạn nhà nước một thành viên 100% vốn nhà nước” theo tinh thần Nghị quyết số 19-NQ/TW ngày 25/10/2017, Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về tiếp tục đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập, Nghị quyết số 08/NQ-CP của Chính phủ về Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 19-NQ/TW. Việc tổng kết thí điểm mô hình hoạt động Công ty mẹ - công ty con của Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam chậm, kéo dài 20 năm .
- Số lượng thủ tục hành chính và tần suất giải quyết của từng thủ tục hành chính còn nhiều, nhất là tại Trung ương dẫn đến có thời điểm một số thủ tục thực hiện chậm, ảnh hưởng hoạt động sản xuất, kinh doanh của nhà xuất bản, các đơn vị liên kết xuất bản. Công tác phối hợp quản lý nhà nước giữa Trung ương với địa phương và giữa các Bộ, ngành ở Trung ương, các Sở, ngành ở địa phương với nhau còn chưa thật chặt chẽ, thường xuyên; việc chia sẻ thông tin, liên thông dữ liệu quản lý chưa tốt, chưa đáp ứng yêu cầu công tác.
- Công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm có lúc, có nơi còn chậm. Chế tài xử lý chưa đủ mạnh, chưa có tác dụng răn đe. Vẫn còn tình trạng các cơ quan có trách nhiệm kiểm tra giám sát thường xuyên kiêm nhiệm nhiều việc, chồng chéo chức năng, lực lượng cán bộ mỏng nên chưa đáp ứng được yêu cầu công việc.
- Do đặc điểm các cơ quan chủ quản rất đa dạng , không đồng cấp, nên việc quản lý, giám sát, hỗ trợ của các cơ quan chủ quản đối với các nhà xuất bản còn thiếu sự thống nhất, đồng bộ và khó đảm bảo đúng quy định của Luật Xuất bản. Một số cơ quan chủ quản chưa thực hiện tốt việc bảo đảm các điều kiện cho nhà xuất bản trực thuộc theo quy định .Việc điều chỉnh, bổ sung vốn đối với các nhà xuất bản là doanh nghiệp chưa được thực hiện. Các nhà xuất bản hoạt động theo loại hình doanh nghiệp không thể tiếp cận được sự hỗ trợ về trụ sở, kinh phí hoạt động từ cơ quan chủ quản do vướng mắc với các quy định của Luật Doanh nghiệp, Luật Đất đai, Luật Ngân sách Nhà nước, Luật Đầu tư tài sản công. Việc trích các quỹ theo quy định, đặc biệt là quỹ đầu tư - phát triển gặp khó khăn do lợi nhuận sau thuế thấp. Việc mở rộng liên kết, kêu gọi các nguồn lực xã hội hóa gặp khó khăn do các quy định về điều kiện liên kết gắn với vốn điều lệ. Việc hỗ trợ đặt hàng của cơ quan chủ quản đối với các nhà xuất bản thuộc loại hình đơn vị sự nghiệp tuy đã được cải thiện nhưng còn rất hạn chế. Một số cơ quan chủ quản chưa quan tâm đến công tác nhân sự, nhất là nhân sự lãnh đạo. Vẫn còn để xảy ra tình trạng thiếu chức danh lãnh đạo trong thời gian dài, làm ảnh hưởng đến sự chủ động và sản xuất kinh doanh của nhà xuất bản.
- Việc quản lý khâu xuất bản (quy trình liên kết, quy trình biên tập) có lúc, có nơi còn chưa nghiêm dẫn đến vẫn còn một số xuất bản phẩm vi phạm quy định Luật Xuất bản, buộc các cơ quan quản lý phải xử lý .
- Một số nhà xuất bản chưa thực hiện tốt các quy định liên kết, để cho các đối tác liên kết thao túng dẫn đến các sai phạm, xuống cấp về chất lượng ở các sản phẩm sách liên kết, tạo sự hỗn loạn, cạnh tranh thiếu lành mạnh của thị trường xuất bản. Còn hiện tượng nhà xuất bản buông lỏng quản lý, không thực hiện đầy đủ quy định về quyền tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả theo quy định của pháp luật. Tỉ lệ sách tự xuất bản hàng năm của các nhà xuất bản ngày càng giảm .
- Việc nộp xuất bản phẩm lưu chiểu chưa được một số nhà xuất bản thực hiện nghiêm túc. Vẫn còn hiện tượng xuất bản phẩm phát hành khi chưa có quyết định phát hành hoặc phát hành trước thời gian quy định. Hiện tượng không nộp, nộp không đủ số lượng, nộp không đúng thời hạn cho Thư viện Quốc gia Việt Nam tuy có cải thiện trong thời gian gần đây nhưng chưa hoàn toàn được khắc phục.
3. Hạn chế trong lĩnh vực in xuất bản phẩm
- Việc triển khai thực hiện quy hoạch phát triển lĩnh vực in ở nhiều địa phương chưa phù hợp với quy hoạch tổng thể của tỉnh. So sánh trong khu vực cho thấy, quy mô ngành công nghiệp in Việt Nam tuy có bước phát triển nhưng còn chưa tương xứng với tiềm năng. Hiện cả nước có khoảng 2.300 cơ sở in công nghiệp nhưng số đơn vị có quy mô nhỏ và vừa chiếm tỷ lệ lớn , trên 90% .
Công tác quản lý, hậu kiểm sau cấp phép hoạt động đối với các cơ sở in xuất bản phẩm chưa được chú trọng triển khai thường xuyên, kịp thời cả ở Trung ương và các địa phương, nên việc cập nhật, theo dõi biến động trong các trường hợp cơ sở in có những thay đổi về người đứng đầu, chuyển đổi loại hình doanh nghiệp sau cổ phần hóa, di chuyển địa điểm sản xuất in, không duy trì đủ điều kiện hoạt động in...còn chưa kịp thời. Một số Sở Thông tin và Truyền thông còn gặp khó khăn trong việc tiến hành kiểm tra, thanh tra các cơ sở in hoạt động trong khu công nghiệp, khu chế xuất, hoặc trong địa điểm thuộc đơn vị công an, quân đội quản lý với nhiều lý do khác nhau (bị hạn chế ra vào). Việc điều tra, kiểm tra, xác minh còn hạn chế do việc phân định “sách thật, sách giả” gặp nhiều khó khăn.
- Thực tiễn triển khai thực hiện Luật Xuất bản, các cơ sở in xuất bản phẩm ngoài chịu sự điều chỉnh của Luật Xuất bản còn chịu sự tác động của các quy định của pháp luật về hoạt động in các sản phẩm khác (gần như không có cơ sở in nào chỉ in xuất bản phẩm được điều chỉnh tại Luật Xuất bản, mà hầu hết còn in cả sản phẩm không phải xuất bản phẩm được điều chỉnh bằng Nghị định số 60/2014/NĐ-CP), điều này dẫn đến sự hiểu biết, cập nhật về quy định pháp luật của các cơ sở in chưa đầy đủ, đôi khi còn nhầm lẫn giữa việc thực hiện theo Luật Xuất bản với Nghị định số 60/2014/NĐ-CP. Vẫn còn có nhiều cơ sở in chưa thực hiện tốt quy định về việc ký hợp đồng giữa cơ sở in với nhà xuất bản hoặc cơ quan, tổ chức được cấp giấy phép xuất bản tài liệu không kinh doanh.
- Vấn nạn “in lậu” xuất bản phẩm, chủ yếu là xuất bản phẩm có giá bán lẻ cao, có chi phí mua bản quyền lớn, xuất bản phẩm “best seller”, các loại sách giáo khoa tiếng Anh, sách bổ trợ sách giáo khoa... chưa ngăn chặn được một cách triệt để, tiếp tục gây ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của tác giả, nhà xuất bản, đơn vị liên kết. Có nhiều nguyên nhân gây ra tình trạng “in lậu”. Song nguyên nhân chính vẫn là lợi nhuận thu được từ bán “xuất bản phẩm lậu” vẫn cao. Để trục lợi, các đối tượng thực hiện “in lậu” dùng nhiều chiêu trò, thủ đoạn, phương thức tinh vi để tiêu thụ “xuất bản phẩm lậu”, mà chủ yếu là tác động vào người tiêu dùng thông qua việc hạ giá bán bằng hình thức tăng % chiết khấu (từ 50%, thậm chí là 70-80% so với giá bán lẻ in trên xuất bản phẩm).
- Việc tổ chức các khóa bồi dưỡng nghiệp vụ quản lý hoạt động in cho người đứng đầu các cơ sở in xuất bản phẩm được triển khai thường xuyên ngay từ giai đoạn các năm từ 2013 đến 2019. Tuy nhiên, sau đó do ảnh hưởng của dịch Covid-19, cũng như số lượng người đăng ký bồi dưỡng giảm nhiều trong năm 2020, 2021 nên việc mở các khóa bồi dưỡng này không được thường xuyên như giai đoạn trước chưa đáp ứng kịp nhu cầu của người học đối với trường hợp cơ sở in thành lập mới hoặc có thay đổi nhân sự người đứng đầu.
- Việc thực hiện chế độ báo cáo về hoạt động in xuất bản phẩm của cơ sở in theo yêu cầu của cơ quan quản lý nhà nước về hoạt động xuất bản chưa được thực hiện nghiêm đối với các cơ sở in ở Trung ương và địa phương dẫn đến tình trạng số liệu phục vụ quản lý thiếu thống nhất, đồng bộ, gây khó khăn trong việc hoạch định, xây dựng các chính sách vĩ mô và quản lý trong thực tiễn.
4. Hạn chế phát hành xuất bản phẩm
- Việc rà soát cấp phép chưa được triển khai thường xuyên nên vẫn còn trường hợp cơ sở phát hành không duy trì đủ điều kiện hoạt động hoặc thay đổi loại hình tổ chức, thay đổi hoặc phát sinh thêm chi nhánh/địa điểm kinh doanh nhưng cơ quan quản lý không nắm được để quản lý kịp thời.
- Hiện tượng tàng trữ, mua bán sách lậu, vi phạm bản quyền, sách có nội dung vi phạm quy định Luật Xuất bản, chưa được khắc phục hiệu quả. Lợi dụng mạng xã hội, một số cá nhân, tổ chức tham gia hoạt động kinh doanh phát hành không thực hiện các thủ tục theo quy định pháp luật; phát hành sách lậu, sách vi phạm bản quyền, ảnh hưởng nghiêm trọng quyền lợi tác giả, nhà xuất bản và đơn vị liên kết, tác động tiêu cực đến sự phát triển chung của ngành.
- Một số cơ sở nhập khẩu chưa thực hiện nghiêm các quy định về thẩm định nội dung xuất bản phẩm nhập khẩu để kinh doanh trước khi phát hành khi có yêu cầu của cơ quan quản lý nhà nước. Vẫn còn hiện tượng cơ sở phát hành không thực hiện thẩm định sách hoặc tổ chức thẩm định qua loa, hình thức buộc các cơ quan chức năng phải xử lý.
- Việc cấp giấy phép nhập khẩu xuất bản phẩm không kinh doanh dù có nhiều nỗ lực nhưng do nhưng hạn chế trong các quy định liên quan và năng lực thực thi của các cơ quan quản lý nên dù đã có nhiều nỗ lực nhằm giải quyết nhanh chóng hồ sơ, quy trình thẩm định, rút ngắn thời gian cấp giấy phép nhập khẩu xuất bản phẩm không kinh doanh nhưng nhìn chung thời gian nhập khẩu chậm, còn nhiều trường hợp bị kéo dài.
5. Hạn chế xuất bản xuất bản phẩm điện tử
- Mặc dù xuất bản điện tử đang là xu thế phát triển của xuất bản hiện nay và xuất bản điện tử ở Việt Nam cũng đang dần phát triển trong 02 năm trở lại đây nhưng nhìn chung còn thấp so với các nước trong khu vực và thế giới. Hiện xuất bản điện tử mới đạt 7% về số đầu sách và khoảng 5% về số bản sách, ở mức trung bình thấp trong khu vực, chưa đáp ứng được nhu cầu đa dạng của xã hội về xuất bản phẩm điện tử.
- Đến thời điểm hiện nay, đã có 17/57 nhà xuất bản được cấp đăng ký hoạt động xuất bản và phát hành điện tử nhưng trên thực tế, mới chỉ có 03 cơ quan chủ quản bố trí nguồn kinh phí hỗ trợ đầu tư xây dựng, hiện đại hóa cơ sở vật chất, ứng dụng công nghệ - kỹ thuật tiên tiến cho nhà xuất bản để xuất bản xuất bản phẩm điện tử ; các đơn vị còn lại tham gia bằng nguồn lực tự có hoặc dưới hình thức liên kết với các công ty công nghệ .
- Điều kiện hoạt động phát hành xuất bản phẩm điện tử quy định tại Điều 45 của Luật Xuất bản vẫn còn có nhiều khó khăn cho doanh nghiệp, chưa tạo điều kiện cho hoạt động phát hành xuất bản phẩm điện tử thực sự phát triển. Việc đầu tư của các đơn vị cho hoạt động phát hành xuất bản phẩm điện tử còn hạn chế.
- Nguồn nhân lực phát triển xuất bản và phát hành điện tử của các nhà xuất bản còn nhiều hạn chế. Hầu hết còn kiêm nhiệm. Một số nhà xuất bản tuy tổ chức bộ phận độc lập nhưng chất lượng lao động còn hạn chế do tính đặc thù của nghề.
- Việc chuẩn bị kế hoạch, đề tài để xuất bản điện tử chưa được các đơn vị xuất bản quan tâm đúng mức. Vì thế, dù số lượng các đơn vị đăng ký tăng lên nhưng chủ yếu vẫn dưới hình thức tái bản, đặc biệt dạng sách nói; số xuất bản điện tử mới ít, hiệu quả kinh tế chưa cao.
- Việc kiểm soát thị trường xuất bản phẩm điện tử, ngăn chặn các hành vi xâm phạm bản quyền của các cơ quan quản lý còn rất khó khăn do tính phức tạp của không gian mạng và thương mại điện tử cũng như không đủ nguồn nhân lực.
Những hạn chế vướng mắc nêu trên do một số nguyên nhân như:
- Một là, trong quá trình nghiên cứu, xây dựng các văn bản, đề án triển khai thực hiện Luật, có nhiều vấn đề mới, phức tạp liên quan đến việc đổi mới về cơ chế quản lý hoạt động xuất bản, có những vấn đề lần đầu tiên được triển khai thực hiện ở nước ta (như xuất bản và phát hành xuất bản điện tử) dẫn đến việc chậm triển khai một số quy định của Luật trong thực tế và chưa hiệu quả. Việc phối hợp trong công tác xây dựng các văn bản giữa các cơ quan chức năng chưa nhịp nhàng, thường xuyên.
- Hai là, trong quá trình thực thi Luật, một bộ phận cơ quan quản lý, cơ quan chủ quản chưa nhận thức đúng về vị trí, vai trò, tính phức tạp của hoạt động xuất bản trong điều kiện mới, vẫn coi các nhà xuất bản như những đơn vị kinh tế đơn thuần, thiếu quan tâm đến chức năng tư tưởng, văn hóa, giáo dục của hoạt động xuất bản, không nhận thức và cụ thể hóa các chính sách kinh tế dành cho một lĩnh vực kinh tế - công nghệ đặc thù. Một số đơn vị chỉ tập trung vào nhiệm vụ chính trị của xuất bản; không coi trọng và quan tâm đúng mức đến bản chất kinh tế của hoạt động này; năng lực nắm bắt, phát hiện vấn đề, chủ động kiểm soát tình hình, phối hợp tháo gỡ khó khăn của các cơ quan quản lý xuất bản, cơ quan chủ quản nhà xuất bản và các cơ quan có trách nhiệm liên quan còn nhiều hạn chế.
- Ba là, năng lực của một bộ phận lãnh đạo các đơn vị xuất bản còn hạn chế. Không ít nhà xuất bản còn nặng tư duy bao cấp, trông chờ, ỷ lại vào Nhà nước, muốn quay lại cơ chế cũ, phụ thuộc kinh phí của Nhà nước, không tiếp cận thị trường, hoạt động thiếu hiệu quả, thua lỗ. Một số các đơn vị không chú ý xây dựng thương hiệu, không quan tâm đến trách nhiệm xã hội.
Từ những phân tích nêu trên, sửa đổi, bổ sung Luật Xuất bản là việc làm cần thiết nhằm giải quyết, khắc phục những tồn tại, vướng mắc, bất cập và bảo đảm phù hợp với thực tiễn phát triển của lĩnh vực xuất bản, in và phát hành trong giai đoạn hiện nay.
Bộ Thông tin và Truyền thông cũng đã tiến hành lập đề nghị sửa đổi, bổ sung Luật Xuất bản, dự kiến trình Quốc hội xem xét, thông qua dự án luật trong năm 2025.