Luật công nghệ thông tin (CNTT) bao gồm 6 Chương, 79 Điều quy định toàn diện các lĩnh vực của CNTT, bao gồm: Ứng dụng CNTT (trong cơ quan nhà nước, trong thương mại và trong một số lĩnh vực); Phát triển CNTT (nghiên cứu - phát triển, phát triển nguồn nhân lực, phát triển công nghiệp CNTT, phát triển dịch vụ CNTT); Biện pháp bảo đảm ứng dụng và phát triển CNTT (cơ sở hạ tầng thông tin, đầu tư cho CNTT, hợp tác quốc tế về CNTT, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp và hỗ trợ người sử dụng sản phẩm, dịch vụ CNTT) và các nội dung chung như quy định chung, Giải quyết tranh chấp về công nghệ thông tin,… Như vậy, hai cấu phần chính trong Luật CNTT là Ứng dụng CNTT và Phát triển CNTT.
- Về phát triển CNTT, công nghiệp CNTT: Các quy định về phát triển CNTT, công nghiệp CNTT trong Luật CNTT đã góp phần giúp ngành công nghiệp CNTT đạt được những kết quả quan trọng. Tổng doanh thu công nghiệp CNTT năm 2020 đạt 124,7 tỷ USD, gấp 20 lần so với năm 2009 (6,2 tỷ USD) và gấp hơn 2 lần năm 2015. Tốc độ tăng trưởng giai đoạn 2015-2020 đạt bình quân 15,2%/năm, cao hơn 2 lần tốc độ tăng trưởng GDP, trở thành một trong những ngành kinh tế có tốc độ tăng trưởng nhanh nhất, quy mô lớn nhất của cả nước. Năm 2020, Việt Nam đã hình thành đội ngũ lao động công nghệ số với hơn 1 triệu người. Các doanh nghiệp công nghiệp CNTT đã nộp ngân sách nhà nước gần 60 nghìn tỷ đồng. Tuy nhiên, với những tồn tại, bất cập nêu trên, Bộ TTTT thấy rằng cần phải nghiên cứu để sửa đổi, thay thế, hoàn thiện khung pháp lý về phát triển CNTT, công nghiệp CNTT, hướng tới hình thành khung pháp lý về công nghiệp công nghệ số.
- Về ứng dụng CNTT:Các quy định về ứng dụng CNTT trong Luật CNTT và các văn bản quy phạm pháp luật nêu trên đã cơ bản thiết lập được hành lang pháp lý cho các hoạt động ứng dụng CNTT, phát triển chính phủ điện tử của các cơ quan nhà nước và đã đạt được nhiều kết quả tích cực như: Hạ tầng kỹ thuật cơ bản đáp ứng được nhu cầu; cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, cơ sở dữ liệu quốc gia về đăng ký doanh nghiệp, cơ sở dữ liệu quốc gia về bảo hiểm hoàn thành, từng bước được khai thác, sử dụng hiệu quả; việc trao đổi văn bản điện tử đã đi vào nền nếp; nhiều dịch vụ công đã được cung cấp trực tuyến mức độ 3, 4; xếp hạng quốc gia về Chính phủ điện tử được cải thiện; thể hiện rõ vai trò quan trọng đối với phát triển kinh tế - xã hội trong và sau đại dịch Covid-19.
Về cơ bản, hệ thống pháp lý về CNTT trong thời gian qua đã tương đối đầy đủ. Tuy nhiên, ngoài những kết quả đã đạt được trong quá trình thực hiện Luật CNTT, hệ thống pháp lý về CNTT cũng như các hoạt động triển khai ứng dụng, phát triển CNTT, công tác quản lý nhà nước về CNTT còn một số tồn tại, bất cập như sau:
Thứ nhất, bất cập của hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về CNTT:
- Một số nội dung trong Luật chưa quy định cơ quan được giao xây dựng, ban hành văn bản hướng dẫn;
- Quy định trong Luật đã giao cho Chính phủ và các bộ, ngành hướng dẫn chi tiết nhưng chưa được ban hành để triển khai trong thực tế;
- Quy định tại khoản 3 Điều 62 của Luật về việc có loại chi riêng về CNTT trong Mục lục ngân sách nhà nước chưa được hướng dẫn;
- Nhiều quy định còn trùng lặp, chưa thống nhất giữa các quy định của Luật CNTT và các luật, văn bản dưới luật khác;
- Luật thiếu các quy định phù hợp với thực tiễn phát triển CNTT hiện nay;
Thứ hai, bất cập trong công tác thực thi pháp luật về CNTT:
- Chưa nhận thức đầy đủ vai trò và tầm quan trọng của CNTT;
- Nguồn nhân lực CNTT chưa đáp ứng yêu cầu;
- Tổ chức, bộ máy quản lý, triển khai CNTT còn một số tồn tại;
- Chồng chéo trong thực thi quản lý nhà nước giữa các cơ quan trong một số lĩnh vực CNTT;
- Công tác đảm bảo an toàn thông tin còn tồn tại nhiều bất cập;
Thứ ba, bất cập về nguồn lực, kinh phí
Các tồn tại, bất cập trong triển khai thi hành Luật công nghệ thông tin do một số nguyên nhân chính là:
Thứ nhất, về thể chế, chính sách
Yêu cầu quản lý, phát triển và ứng dụng CNTT để tương xứng với một ngành mũi nhọn, có hàm lượng công nghệ cao, có tính lan tỏa trong đời sống kinh tế, xã hội đã và đang đặt ra những yêu cầu mới, đặc thù về chính sách cũng như quy định quản lý của ngành. Cụ thể, về thể chế, chính sách cho lĩnh vực CNTT bộc lộ một số điểm cần hoàn thiện, điều chỉnh do các nguyên nhân sau:
- Còn có sự chưa rõ ràng, chưa cụ thể, mang tính nguyên tắc hoặc khuyến khích mà chưa có chế tài trong một số quy định của Luật và các văn bản hướng dẫn.
- Chưa có sự đồng bộ, thống nhất giữa hệ thống pháp lý về CNTT với các quy định pháp luật của các ngành khác, dẫn đến nhiều chính sách phát triển, ứng dụng CNTT không khả thi, thiếu hiệu quả.
- Một số văn bản quy phạm pháp luật về CNTT, do yêu cầu về tiến độ soạn thảo hoặc hạn chế nguồn lực dẫn đến công tác khảo sát thực tế, đánh giá tác động còn chưa được chú trọng đúng mức, điều này đã làm giảm tính thực tiễn của những văn bản này, gây khó khăn khi triển khai thi hành.
- Chưa có cơ chế đầy đủ và hiệu quả để huy động sự tham gia của khu vực kinh tế tư nhân vào đầu tư, phát triển trong lĩnh vực CNTT.
- Hệ thống quy định pháp lý về CNTT chậm so với sự phát triển nhanh chóng của ngành với sự xuất hiện ngày càng nhiều của các xu thế, hình thái phát triển mới trong lĩnh vực CNTT. Cơ chế, chính sách chưa phù hợp để đón nhận, tạo điều kiện phát triển các mô hình kinh doanh mới có tính cạnh tranh cao trên nền tảng CNTT.
Thứ hai, về bộ máy, nhân lực thực hiện công tác quản lý nhà nước về CNTT
Thời gian qua, việc tổ chức bộ máy quản lý, triển khai các hoạt động CNTT mặc dù đã được hoàn thiện nhưng vẫn còn một số nội dung bất cập do các nguyên nhân cụ thể sau:
- Vai trò của người đứng đầu cơ quan, tổ chức trong công tác ứng dụng và phát triển CNTT chưa thực sự rõ nét.
- Thiếu nhân lực có trình độ kỹ thuật cao cũng như kỹ năng quản lý tốt về CNTT ở cả cấp Trung ương và địa phương là một trong những nguyên nhân làm giảm hiệu quả, chất lượng quản lý nhà nước về CNTT.
- Các cơ quan chuyên trách về CNTT tại một số Bộ, ngành chưa được phát huy hiệu quả chức năng tham mưu, xây dựng, hướng dẫn kế hoạch về ứng dụng và phát triển CNTT.
- Có sự không đồng bộ, thiếu thống nhất trong tổ chức thực thi quản lý nhà nước lĩnh vực CNTT giữa Bộ Thông tin và Truyền thông với một số Bộ, ngành ở Trung ương, giữa Sở Thông tin và Truyền thông với một số cơ quan tại địa phương.
- Nhận thức về ATTT tại các đơn vị chưa cao, bộ phận chuyên trách về an toàn thông tin còn thiếu. Năng lực, trình độ kỹ thuật của cán bộ phụ trách ATTT còn hạn chế và chưa được đào tạo bài bản, nâng cao kỹ năng thường xuyên gây ảnh hưởng không nhỏ đến việc quản lý vận hành và duy trì các hệ thống thông tin tại đơn vị.
Thứ ba, về đầu tư kinh phí
- Các Bộ, ngành và địa phương chưa coi trọng việc cấp kinh phí cho hoạt động ứng dụng CNTT và phát triển ngành công nghiệp CNTT.
- Cơ cấu phân bổ kinh phí chưa thực sự hợp lý. Trong số kinh phí được ngân sách cấp cho ngành CNTT, cơ cấu phân bổ kinh phí giữa các lĩnh vực như công nghiệp, ứng dụng CNTT, dịch vụ, nhân lực chưa hợp lý... Kinh phí đầu tư cho CNTT trong thời gian qua chủ yếu tập trung cho hoạt động ứng dụng CNTT. Kinh phí ngân sách đầu tư để tạo tiền đề, nền tảng ban đầu cho ngành công nghiệp CNTT, một ngành có những đóng góp trực tiếp vào GDP cả nước, còn rất thấp. Vì vậy, vai trò của Nhà nước trong việc định hướng phát triển ngành công nghiệp CNTT chưa rõ nét, chủ yếu dựa vào hoạt động tự phát của doanh nghiệp. Thực tế, mặc dù Đảng và Nhà nước có nhiều chính sách nêu cao tầm quan trọng của ngành công nghiệp CNTT, nhưng đầu tư cho Ngành này so với các lĩnh vực công nghiệp khác còn chưa tương xứng.
Bên cạnh những nguyên nhân chính trên đây, còn một số nguyên nhân khác cản trở các hoạt động ứng dụng và phát triển của CNTT như:
- Trong quản lý nhà nước về CNTT thiếu các công cụ, phương pháp tiên tiến. Vai trò của việc phân tích, thống kê các số liệu của ngành phục vụ công tác quản lý nhà nước về CNTT chưa được chú trọng đúng mức nên nhiều biện pháp, chính sách, quy định quản lý trong lĩnh vực CNTT chưa hiệu quả cao.
- Vai trò tư vấn chiến lược, phản biện, tham mưu chính sách phát triển, ứng dụng CNTT của các tổ chức xã hội, nghề nghiệp và cộng đồng trí thức, doanh nghiệp CNTT chưa hiệu quả là một trong các nguyên nhân làm cho các chiến lược, chương trình, kế hoạch CNTT chưa thực sự đúng và trúng, chưa phù hợp với bối cảnh, điều kiện phát triển của đất nước trong từng thời điểm.
- Mối liên kết giữa các cơ sở đào tạo, cơ sở nghiên cứu, doanh nghiệp và cơ quan quản lý nhà nước trong lĩnh vực CNTT chưa hiệu quả. Do vậy, năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp CNTT còn hạn chế. Một số chính sách, chương trình, đề án liên quan đến CNTT còn chưa phù hợp với xu thế phát triển công nghệ trên thế giới./.