Xây dựng pháp luật

CÔNG TÁC HỢP NHẤT VĂN BẢN TẠI BỘ THÔNG TIN VÀ TRUYỀN THÔNG

07/10/2020 14:30 CH

 1. Vai trò của công tác hợp nhất văn bản

Trong thực tiễn xây dựng pháp luật, do chính sách và các mối quan hệ xã hội đang trong quá trình hình thành, chưa ổn định, do đó, các văn bản quy phạm pháp luật thường xuyên có sự sửa đổi, bổ sung, thậm chí sửa đổi, bổ sung nhiều lần. Thêm vào đó, việc áp dụng kỹ thuật một văn bản để sửa đổi bổ sung nhiều văn bản khác nếu như không thực hiện việc hợp nhất thì sẽ khó theo dõi văn bản. Khi cần tìm hiểu một quy định hay một văn bản còn hiệu lực sẽ phải tra cứu nhiều văn bản, gồm cả văn bản sửa đổi, bổ sung và văn bản được sửa đổi, bổ sung. Bên cạnh đó, rủi ro khi áp dụng, thi hành luật có thể chứa đựng cả những quy định còn hiệu lực và những quy định hết hiệu lực; các quy định còn hiệu lực điều chỉnh về một vấn đề nhưng lại nằm rải rác ở các văn bản quy phạm pháp luật khác nhau.

Hợp nhất văn bản quy phạm pháp luật là hết sức cần thiết trong công tác theo dõi, thi hành pháp luật, giảm thiểu các rủi ro, nhầm lẫn trong quá trình áp dụng, thực hiện; giúp các tổ chức, cá nhân quan tâm dễ dàng tra cứu, tiếp cận một cách đầy đủ, chính xác văn bản quy phạm đồng thời góp phần thống nhất, đơn giản hóa hệ thống pháp luật nói chung và hệ thống pháp luật trong lĩnh vực Thông tin và truyền thông nói riêng.

2. Thế nào là hợp nhất văn bản

Hợp nhất văn bản được định nghĩa tại khoản 1 Điều 2 Pháp lệnh hợp nhất văn bản QPPL như sau: “Là việc đưa nội dung sửa đổi, bổ sung trong văn bản sửa đổi, bổ sung một số điều của văn bản đã được ban hành trước đó vào văn bản được sửa đổi, bổ sung theo quy trình, kỹ thuật quy định tại Pháp lệnh này”.  Theo đó, hợp nhất văn bản quy phạm pháp luật thực chất là việc đưa các nội dung của văn bản sửa đổi, bổ sung vào văn bản được sửa đổi, bổ sung và phải luôn đảm bảo sự đầy đủ, chính xác về nội dung của các văn bản được hợp nhất. Và điều quan trọng hơn cả trong quá trình hợp nhất là việc hợp nhất văn bản quy phạm pháp luật không được làm ảnh hưởng đến nội dung và hiệu lực của các văn bản quy phạm pháp luật được hợp nhất.

Như vậy, việc hợp nhất văn bản quy phạm pháp luật là một hoạt động thuần túy có tính kỹ thuật, không tạo ra các quy phạm pháp luật mới và cũng không tạo ra văn bản quy phạm pháp luật mới. Văn bản hợp nhất phải là văn bản mà khi người đọc tiếp cận thì đã là một văn bản hoàn chỉnh, chứa đựng những quy định có hiệu lực (hoặc sẽ có hiệu lực vào thời điểm văn bản được hợp nhất có hiệu lực).

“Văn bản được hợp nhất” là văn bản sửa đổi, bổ sung một số điều và văn bản được sửa đổi, bổ sung (Khoản 2 Điều 2 Pháp lệnh); “văn bản hợp nhất” là văn bản được hình thành sau khi hợp nhất văn bản sửa đổi, bổ sung với văn bản được sửa đổi, bổ sung. Theo đó, có thể hiểu “văn bản được hợp nhất” chính là nguyên liệu đầu vào cho “văn bản hợp nhất”, còn văn bản hợp nhất là văn bản được tạo ra từ việc đưa các nội dung của văn bản sửa đổi, bổ sung vào văn bản được sửa đổi, bổ sung. Trong đó, văn bản hợp nhất phải thể hiện được rõ: những quy định đã bị bãi bỏ, những quy định được bổ sung, những quy định đã được sửa đổi.

3. Công tác hợp nhất văn bản tại Bộ Thông tin và Truyền thông

Triển khai Chỉ thị số 26/CT-TTg ngày 28/9/2012 về việc triển khai thi hành Pháp lệnh hợp nhất văn bản quy phạm pháp luật và Quyết định số 63/QĐ-TTg ngày 07/01/2013 ban hành Kế hoạch của Chính phủ về hợp nhất văn bản QPPL của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Thông tin và Truyền thông đã ban hành Quyết định số 2353/QĐ-BTTTT ngày 30/12/2016 ban hành Quy chế xây dựng, ban hành, rà soát, hệ thống hóa, hợp nhất văn bản quy phạm pháp luật, pháp điển quy phạm pháp luật và tham gia góp ý kiến vào các dự án, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật tại Bộ Thông tin và Truyền thông. Trong đó, hướng dẫn cụ thể triển khai công tác hợp nhất văn bản quy phạm pháp luật tại Bộ Thông tin và Truyền thông. Vụ Pháp chế là đơn vị đầu mối đã cùng với các cơ quan, đơn vị chủ trì xây dựng văn bản quy phạm pháp luật dự thảo, rà soát văn bản hợp nhất trước khi trình Lãnh đạo Bộ ký ban hành.

Trên cơ sở thực hiện đúng các quy định của Pháp lệnh hợp nhất và việc triển khai, phối hợp tích cực giữa Vụ Pháp cế và các cơ quan, đơn vị trong Bộ, công tác hợp nhất văn bản QPPL của Bộ Thông tin và Truyền thông đến nay đã đạt được những kết quả tích cực, cụ thể:

Về số lượng các văn bản hợp nhất: Bộ triển khai hợp nhất 29 văn bản quy phạm pháp luật sau ngày Pháp lệnh Hợp nhất văn bản QPPL có hiệu lực (số liệu tính đến tháng 10/2020). Đối với năm 2020, trong 10 tháng đầu năm , Bộ Thông tin và Truyền thông đã ban hành 04 văn bản hợp nhất, bao gồm:

- Văn bản hợp nhất số 1/VBHN-BTTTT16/03/2020 về việc xác thực văn bản hợp nhất Thông tư số 12/2019/TT-BTTTT ngày 05/11/2019 sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 27/2017/TT-BTTTT ngày 20/10/2017;

- Văn bản hợp nhất số 2/VBHN-BTTTT ngày 11/08/2020 về hợp nhất Quy định về chứng nhận hợp quy và công bố hợp quy đối với sản phẩm, hàng hóa chuyên ngành công nghệ thông tin và truyền thông;

- Văn bản hợp nhất số 3/VBHN-BTTTT ngày 25/08/2020 về hợp nhất Thông tư số 14/2020/TT-BTTTT về sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 08/2016/TT-BTTTT ngày 30 tháng 3 năm 2016 của Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông Hướng dẫn thực hiện Chương trình cung cấp dịch vụ viễn thông công ích đến năm 2020;

- Văn bản hợp nhất số 4/VBHN-BTTTT 17/09/2020 về hợp nhất Nghị định quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Đài Truyền hình Việt Nam;

Về chất lượng của công tác hợp nhất, về cơ bản Bộ Thông tin và Truyền thông đã tiến hành hợp nhất đầy đủ với các văn bản yêu cầu phải thực hiện hợp nhất, đảm bảo yêu cầu về thẩm quyền hợp nhất, kỹ thuật hợp nhất và quy trình hợp nhất theo quy định của Pháp lệnh Hợp nhất văn bản QPPL. Trong quá trình thực hiện hợp nhất có phát sinh những vướng mắc, khó khăn, có những tình huống, kỹ thuật hợp nhất chưa được quy định, hướng dẫn trong Pháp lệnh Hợp nhất văn bản QPPL, để giải quyết các vướng mắc, khó khăn trên, Bộ đã chủ động nghiên cứu, đề xuất các phương án xử lý phù hợp với Pháp lệnh và tham vấn ý kiến của Bộ Tư pháp để đảm bảo văn bản hợp nhất được ban hành đúng thời hạn và chất lượng.

Về những hạn chế, tồn tại: công tác hợp nhất văn bản tại Bộ Thông tin và Truyền thông cũng không tránh khỏi một số khó khăn, tồn tại. Có lúc có đơn vị chưa được thực hiện theo đúng lộ trình về thời gian; công tác hợp nhất văn bản là công việc thường xuyên, liên tục phải thực hiện; người thực hiện công tác văn bản cũng cần có trình độ, kỹ thuật đáp ứng được yêu cầu cao trong quá trình xây dựng văn bản hợp nhất; việc đào tạo, bồi dưỡng kiến thức chuyên môn cho các cán bộ làm công tác này tại các cơ quan, đơn vị thuộc Bộ cũng chưa được thực sự quan tâm.

Về những giải pháp nâng cao hiệu quả công tác hợp nhất văn bản QPPL:Để nâng cao hiệu quả công tác hợp nhất văn bản tại Bộ Thông tin và Truyền thông trong thời gian tới, dự kiến chủ động triển khai một số giải pháp như: Tổ chức các lớp tập huấn, bồi dưỡng kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ, nâng cao ý thức cho các cán bộ về sự cần thiết và ý nghĩa của công tác hợp nhất văn bản tại các cơ quan, đơn vị thuộc Bộ; Vụ Pháp chế là đầu mối, thường xuyên đôn đốc bằng văn bản tới các cơ quan, đơn vị đang trong quá trình xây dựng văn bản sửa đổi, bổ sung để kịp thời xây dựng văn bản hợp nhất đảm bảo ban hành theo đúng thời gian, thể thức quy định.

Từ việc nghiên cứu cả lý luận và thực tiễn công tác hợp nhất văn bản sẽ là tiền đề để triển khai có hiệu quả, bài bản và đồng bộ hơn nữa công tác hợp nhất văn bản tại Bộ Thông tin và Truyền thông. Qua đó cũng sẽ góp phần hoàn thiện, thống nhất hệ thống văn bản quy phạm pháp luật lĩnh vực thông tin và truyền thông./. 

Thu Thao